Trong các quan điểm nêu trên, Đảng ta bổ sung và nhấn mạnh một số nội dung mới là: 1) Phải đặt văn hóa ngang tầm với chính trị và kinh tế; 2) Làm rõ đặc trưng của nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học; 3) Khẳng định mục tiêu của phát triển văn hóa là hướng tới xây dựng nhân cách con người là trọng tâm với các đặc tính cơ bản là yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo; 4) Nhấn mạnh vai trò chủ thể sáng tạo văn hóa là nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng.
Đồng thời, trong Nghị quyết số 33-NQ/TW, Đảng ta bổ sung các nhiệm vụ mới là: 1) Xây dựng văn hóa trong chính trị và trong kinh tế; 2) Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động văn hóa; 3) Phát triển công nghiệp văn hóa đi đôi với xây dựng, hoàn thiện thị trường văn hóa. Đây là những nhiệm vụ rất quan trọng liên quan đến mối quan hệ giữa văn hóa với chính trị và kinh tế, khẳng định vai trò động lực và nguồn lực của văn hóa đối với sự phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh. Để phát huy giá trị văn hóa trở thành “sức mạnh mềm” của đất nước trong giao lưu và hội nhập quốc tế, Đảng ta chủ trương phát triển văn hóa đối ngoại và Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược phát triển văn hóa đối ngoại của Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 (theo Quyết định số 210/QĐ/TTg ngày 8/2/2015).
Đứng trước quá trình đẩy mạnh phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, Đảng ta đặc biệt chú ý đến vấn đề xây dựng hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người Việt Nam được nêu trong Nghị quyết số 33-NQ/TW. Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh của con người Việt Nam”; yêu cầu: “Tập trung nghiên cứu, xác định và triển khai hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới”(12).
Trong quá trình lãnh đạo, Đảng ta luôn quan tâm giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường. Đồng thời, đã khái quát những nhiệm vụ cơ bản để phát triển bền vững hiện nay là: Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên.
Như vậy, mục tiêu xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh và bền vững đất nước không chỉ là yêu cầu xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc mà còn phát huy giá trị văn hóa và sức mạnh con người Việt Nam thực hiện khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Văn hóa phải gắn kết chặt chẽ với chính trị, kinh tế, xã hội, trở thành động lực, mục tiêu và nguồn lực cho sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước. Vì vậy, trong Văn kiện Đại hội XIII, Đảng ta đã nhấn mạnh vai trò của nhân tố văn hóa và con người trong phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, từ mục tiêu, phương hướng, quan điểm, khâu đột phá và nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ Đại hội. Từ đó, vai trò lãnh đạo văn hóa của Đảng ngày càng được khẳng định và mang tính toàn diện, cụ thể, sâu sắc, thực tiễn cao hơn. Điều này thể hiện ở quyết tâm chính trị của Đảng trong chỉ đạo, lãnh đạo nâng cao chất lượng toàn diện nhiệm vụ xây dựng con người và môi trường văn hóa; trong các hoạt động bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa, phát triển văn học, nghệ thuật, thông tin đại chúng; trong xây dựng văn hóa trong chính trị và trong kinh tế; phát triển các ngành công nghiệp văn hóa và thị trường văn hóa, phát triển văn hóa đối ngoại.
Quá trình lãnh đạo văn hóa trong 50 năm qua, Đảng ta không ngừng đổi mới phương thức lãnh đạo theo hướng vừa đảm bảo định hướng chính trị, vừa phát huy quyền tự do, dân chủ, tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho các chủ thể khác nhau phát huy vai trò, trách nhiệm và năng lực của mình để xây dựng, phát triển văn hóa, con người đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh và bền vững đất nước.
Đường lối phát triển văn hóa của Đảng đảm bảo tính tư tưởng, tính khoa học và tính thực tiễn, góp phần phát huy chủ nghĩa yêu nước và truyền thống cách mạng của dân tộc, tăng cường và củng cố khố đại đoàn kết toàn dân để xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tạo lập nền tảng tinh thần lành mạnh, làm động lực thúc đẩy sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, góp phần cùng các lĩnh vực khác làm nên những thắng lợi to lớn, có ý nghĩa lịch sử, xây dựng cơ đồ, vị thế, tiềm lực và uy tín quốc tế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Nhìn lại 50 năm lãnh đạo văn hóa của Đảng, bên cạnh những thành tựu nổi bật, chúng ta cũng cần chỉ rõ những hạn chế trong công tác lãnh đạo văn hóa của Đảng. Đó là tình trạng nhận thức về vai trò, vị trí của văn hóa, con người trong phát triển đất nước chưa được đồng bộ trong cán bộ, đảng viên và xã hội. Vấn đề tu dưỡng, rèn luyện, xây dựng con người chưa được quan tâm đúng mức. Tình trạng tha hóa về đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên chưa được ngăn chặn hiệu quả. Việc thể chế hóa đường lối, chủ trương phát triển văn hóa còn chậm. Đầu tư cho văn hóa chưa tương xứng với vai trò, vị thế của văn hóa trong phát triển. Nguồn lực để xây dựng và phát triển văn hóa còn thiếu và yếu. Công tác chăm lo, xây dựng đội ngũ cán bộ làm văn hóa và đội ngũ trí thức văn nghệ sĩ chưa được quan tâm đúng mức...
Để nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hóa và xây dựng con người, Đảng phải không ngừng phát huy những thành tựu đạt được, khắc phục những hạn chế, yếu kém nêu trên, tạo ra xung lực mới để phát huy vai trò của văn hóa trong thực hiện khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc./.
PGS.TS. PHẠM DUY ĐỨC
________________________________
(1) (2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX). Nxb. Chính trị quốc gia. H, 2005, tr.322, 493-494
(3) (4) (5) (6) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2011, tr.71, 71, 75-76, 75-76.
(7) (8) (12) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật. H, 2021, t.I, tr 115-116, 115-116, 143.
(9) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 1998, tr.69
(10) (11) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Văn phòng Trung ương Đảng. H, 2014, tr.46-47, 47.