Chủ Nhật, 13/10/2024
Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Thứ Hai, 22/4/2019 5:0'(GMT+7)

Phòng, chống sự tha hóa quyền lực

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet

SỰ THA HÓA QUYỀN LỰC TINH VI, PHỨC TẠP

Thực tiễn cho thấy, sự tha hóa quyền lực của một bộ phận cán bộ, đảng viên giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý ở nước ta thời gian qua diễn ra bằng nhiều phương thức rất đa dạng, tinh vi, phức tạp, từ việc dùng quyền hạn của mình để tác động không đúng, không phù hợp cho đến sự “ưu ái” đối với các lĩnh vực nhằm trục lợi cho mình và nhóm lợi ích… Hầu hết sai phạm đều có liên quan đến cán bộ, đảng viên có chức vụ, quyền hạn trong việc quyết định chủ trương, chính sách, cấp phép, cấp vốn, quy hoạch, bổ nhiệm cán bộ…

Không chỉ có cán bộ lãnh đạo, quản lý tha hóa quyền lực mà cả những công chức, viên chức trong đó có cán bộ tham mưu, giúp việc, trợ lý, thư ký riêng… cũng lợi dụng vị trí công tác được phân công để trục lợi cá nhân, phe nhóm, gây bức xúc trong xã hội. Đặc biệt, sự tha hóa quyền lực vừa trắng trợn vừa tinh vi, câu kết chặt chẽ “trên - dưới”, “trong - ngoài” bằng “luật ngầm” đã xuất hiện ở nhiều nơi, nhiều ngành. Thậm chí, trong chừng mực nhất định, đã xuất hiện dấu hiệu tha hóa quyền lực của cán bộ, đảng viên gắn với tội phạm có tổ chức.

Điều đáng lưu tâm là, sự tha hóa quyền lực đã có nhiều dư luận, nhiều người biết, nhưng để phòng, chống được các biểu hiện của sự tha hóa quyền lực lại không hề dễ dàng, vì sự đan xen trong quá trình thực thi nhiệm vụ, công vụ gắn với người có chức vụ, có quyền hạn ở các cấp, các lĩnh vực. 

Ranh giới giữa khuôn khổ quyền hạn được giao và sự năng động, sáng tạo rất mong manh và những tình huống trong thực tiễn rất đa dạng, phong phú. Nếu không làm rõ được vấn đề này cộng với “cách nhìn” phiến diện rất dễ dẫn đến “chụp mũ” cho cán bộ, đảng viên năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, làm lợi cho Đảng, cho dân nhưng nhiều khi lại bị cho là lạm quyền, lộng quyền hoặc cố ý làm trái, dẫn đến làm thui chột động lực phát triển.

Mặt khác, việc phát hiện và xử lý các vụ việc có liên quan đến tha hóa quyền lực thường rất khó khăn, phức tạp, vì nó gắn với người có chức vụ, có quyền hạn nên có mối quan hệ chằng chịt, đa dạng, có trường hợp bao che, phản kích quyết liệt lại lực lượng kiểm tra. 

Thực tế, chủ yếu các vụ việc tha hóa quyền lực đều nhằm trục lợi - tức là tham nhũng, nên nảy sinh sự cấu kết rất chặt chẽ trong quá trình thực thi nhiệm vụ, công vụ, bất chấp các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước, bất chấp cả đạo lý. Những vụ việc tha hóa quyền lực của cán bộ, đảng viên, công chức, nhất là của cán bộ lãnh đạo, quản lý biểu hiện rất đa dạng, tinh vi, theo từng vụ, việc và thường “vây quanh” một số cá nhân nhất định. Lợi dụng tính thiếu công khai, minh bạch, thiếu cơ chế và chế tài kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực, một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức lợi dụng kẽ hở trong các quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước để trục lợi. 

Sự tha hóa quyền lực có cả nguyên nhân chủ quan và khách quan. 

Nguyên nhân khách quan: Mặt trái của cơ chế thị trường và toàn cầu hóa đã và đang tác động làm nảy sinh, phát triển sự tha hóa quyền lực của cán bộ nói chung, cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp nói riêng với diễn biến phức tạp, khó kiểm soát, gây khó khăn cho việc phòng ngừa, phát hiện và xử lý. 

Chính sách, pháp luật của Nhà nước chưa đồng bộ, thiếu thống nhất, còn chồng chéo, mâu thuẫn hoặc chưa đủ rõ, chưa phù hợp, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và thể chế của nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp còn đan xen, nhiều kẽ hở, dễ bị lợi dụng... Nội dung các quy định của Đảng về vấn đề kiểm soát quyền lực, nhất là những nội dung về tính chất, mức độ và mối quan hệ giữa các biểu hiện của sự tha hóa quyền lực của cán bộ chưa được phân tích, làm rõ một cách đầy đủ, sâu sắc. 

Tâm lý “một người làm quan cả họ được nhờ”, “nể nang, né tránh, ngại va chạm”, “dễ người dễ ta”, “dĩ hòa vi quý”, tâm lý làng, xã, đồng hương cộng với tư duy tiểu nông đã ăn sâu trong nhiều người Việt, tạo ra một tâm lý xã hội ngại đấu tranh, ngại nói thẳng, hoặc có việc dính dáng đến bản thân, gia đình là đi “nhờ vả”,… đã tạo điều kiện để một số cán bộ, đảng viên thực thi công vụ lợi dụng chức vụ, quyền hạn, vị trí công tác của mình để trục lợi. 

Nguyên nhân chủ quan: Nhận thức của một số cấp uỷ, tổ chức đảng, lãnh đạo cơ quan, đơn vị và bản thân đội ngũ cán bộ, đảng viên nhất là người đứng đầu về phòng, chống sự tha hóa quyền lực chưa sâu sắc, toàn diện hoặc chưa đủ rõ. 

Chủ nghĩa cá nhân, tham vọng danh lợi, công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên chưa được coi trọng đúng mức. Không ít cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng, rèn luyện, nâng cao bản lĩnh chính trị, nhân sinh quan cách mạng, tinh thần hy sinh cống hiến vì sự nghiệp của Đảng, lười học tập, xem nhẹ việc học tập lý luận chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ, các chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. 

Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra, giám sát và tổ chức thực hiện của một số cấp ủy, tổ chức đảng và người đứng đầu chưa nghiêm, thiếu công tâm, khách quan; vẫn còn mang nặng tư duy nhiệm kỳ, “lợi ích nhóm”, né tránh, thoả hiệp hoặc áp đặt độc đoán, mất dân chủ, chưa gương mẫu, thiếu tinh thần trách nhiệm, sợ trách nhiệm, lấy tập thể làm bình phong cho những ý đồ cá nhân. 

Công tác cán bộ, quản lý đội ngũ cán bộ chậm đổi mới, một số khâu chưa được chuẩn hóa, còn sơ hở và thiếu tính khoa học, quá nhiều tiêu chuẩn kiểu định tính mà ít tiêu chuẩn mang tính định lượng; phương pháp, quy trình tuyển chọn, quy hoạch, bố trí, sắp xếp, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ, nhất là việc thay thế cán bộ có biểu hiện tha hóa quyền lực, yếu kém, miễn nhiệm, cho từ chức đối với cán bộ không đủ tiêu chuẩn chậm được thực hiện. 

Công tác bảo vệ chính trị nội bộ còn lúng túng trong xác định mô hình tổ chức, bố trí cán bộ, nhất là chưa chuyển trọng tâm từ xử lý vấn đề lịch sử chính trị sang nắm bắt, giải quyết và xử lý những vấn đề chính trị hiện nay. 

Vai trò giám sát và phản biện của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội đối với tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên ở không ít nơi chưa được phát huy, chưa có cơ chế nêu cao vai trò, trách nhiệm của báo chí, các cơ quan truyền thông trong kiểm soát quyền lực. 

Chưa coi trọng việc sơ kết, tổng kết thực tiễn, nghiên cứu khoa học, phát triển lý luận về kiểm soát quyền lực nói chung, phòng, chống sự tha hóa quyền lực nói riêng, đến Đại hội XII của Đảng, vấn đề này mới được đặt ra một cách quyết liệt. 

Công tác kiểm tra, giám sát còn chưa bảo đảm hiệu lực, liệu quả, còn biểu hiện trên nóng, dưới lạnh. Việc xử lý vi phạm của cán bộ, đảng viên tha hóa quyền lực trong không ít trường hợp chưa kịp thời, nghiêm minh, đồng bộ, triệt để, dứt điểm nên tính phòng ngừa, răn đe và giáo dục chưa cao.

PHẢI KIỂM SOÁT CHẶT CHẼ ĐƯỢC QUYỀN LỰC 

Để phòng, chống sự tha hóa quyền lực, tức là phải kiểm soát chặt chẽ được quyền lực, trước hết là quyền lực của một số cán bộ lãnh đạo, quản lý đòi hỏi phải có hệ thống giải pháp đồng bộ, khả thi. Trong phạm vi bài viết, xin nêu một số giải pháp chính sau đây:

Một là, cụ thể hóa các biểu hiện tha hóa quyền lực đối với từng vị trí, lĩnh vực công tác, trước hết là của cán bộ lãnh đạo, quản lý để biết và thực hiện, tự phòng tránh không mắc phải sự tha hóa quyền lực dù là nhỏ nhất là cách tốt nhất để phòng ngừa với phương châm “phòng bệnh hơn chữa bệnh”.

Hai là, thiết lập cơ chế kiểm soát quyền lực theo nguyên tắc quyền hạn đi đôi với trách nhiệm, mọi quyền lực đều phải được kiểm soát. Xây dựng quy định về thẩm quyền và trách nhiệm của tập thể, cá nhân, bảo đảm phải rõ quyền, đủ quyền, đúng quyền và thực quyền. Bổ sung, hoàn thiện cơ chế phản biện, chất vấn, giải trình để bảo đảm công khai, minh bạch; xử lý nghiêm minh những tổ chức, cá nhân thiếu trách nhiệm hoặc đùn đẩy, né tránh, trả thù, trù dập. Nghiên cứu xây dựng quy định phát huy vai trò, trách nhiệm, quyền của các đại biểu dự đại hội đảng các cấp trong suốt cả nhiệm kỳ, trước hết là quyền chất vấn, kiểm tra, giám sát đối với các cấp ủy viên do mình bầu ra. Xây dựng các quy định về báo cáo công việc liên quan đến công tác cán bộ (tuyển dụng, bổ nhiệm, sử dụng....) của cán bộ lãnh đạo đảng, chính quyền các cấp. Hoàn thiện và đổi mới các quy định của Đảng, trước mắt cần làm rõ, cụ thể hóa nội dung và phương thức cầm quyền của Đảng ta. 

Nâng cao nhận thức để mọi tổ chức, cán bộ, đảng viên và nhân dân hiểu rõ về nội dung, phương thức cầm quyền giống và khác gì nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng để áp dụng thực hiện đúng có hiệu quả. 

Ba là, xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, công chức, viên chức các cấp, nhất là cán bộ cấp chiến lược có phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống mẫu mực, trình độ, năng lực đáp ứng tốt yêu cầu, nhiệm vụ, quyền hạn được giao theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 7 khóa XII về công tác cán bộ. 

Khi xem xét về sự tha hóa quyền lực của cán bộ, đảng viên đều phải xét từ góc độ hai phía, người có quyền lực và đối tượng chịu sự tác động của quyền lực đó. Trong thực tế, sự tha hóa quyền lực thường xảy ra giữa cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức có chức vụ, quyền hạn trong hệ thống chính trị, nhất là của người đứng đầu các cơ quan đảng, nhà nước với cán bộ, đảng viên dưới quyền thuộc phạm vi lãnh đạo, quản lý mà thường qua đó các bên đều có lợi ích nhất định. Do đó, việc lựa chọn cán bộ lãnh đạo chủ chốt, người đứng đầu cấp ủy, chính quyền... từ cấp Trung ương đến cơ sở là cực kỳ quan trọng, quyết định tới kết quả hoạt động của cả hệ thống chính trị theo đúng quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước. 

Bốn là, đổi mới, sắp xếp, tinh gọn bộ máy của hệ thống chính trị theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 khóa XII. Đặc biệt, cần quy định hạn chế cấp hàm và cấp phó tối đa của các tổ chức trong hệ thống chính trị, nhất là cấp phó trong nội bộ các cơ quan đảng. Nếu quá nhiều cấp hàm và cấp phó sẽ khó cho việc kiểm soát quyền lực mà hiệu lực, hiệu quả công tác sẽ không cao. Đồng thời, rà soát và sửa đổi, bổ sung quy chế làm việc của các tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị, trong đó cần quy định rõ ràng nguyên tắc, trách nhiệm, thẩm quyền của tập thể, của người đứng đầu và từng cấp phó, công chức, viên chức, nhân viên để mọi người thực hiện đúng với vị trí công việc của mình, nhất là ở những nơi “nhất thể hóa” bí thư cấp ủy đồng thời là chủ tịch ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã.

Năm là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng trong việc kiểm soát quyền lực. Trong đó, cần đẩy mạnh kiểm tra, giám sát công tác cán bộ và cán bộ theo hướng đồng bộ hóa các quy định của Nhà nước theo chủ trương, quy định của Đảng về kiểm tra, giám sát, thanh tra, xử lý vi phạm. Thực hiện đồng thời cấp trên kiểm tra, giám sát cấp dưới; kiểm tra, giám sát nội bộ, giám sát từ dưới lên; giám sát chéo giữa các cơ quan, tổ chức, giám sát của nhân dân.

Tổ chức tốt việc thu thập và giải quyết đơn thư tố cáo hành vi tha hóa quyền lực của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, nhất là của cán bộ lãnh đạo, quản lý, trước hết là người đứng đầu. Khuyến khích sự tham gia và phát huy vai trò của nhân dân, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và các phương tiện thông tin đại chúng trong phát hiện dấu hiệu tha hóa quyền lực để tiến hành công tác kiểm tra, giám sát. 
Đổi mới công tác kiểm tra, giám sát của ủy ban kiểm tra các cấp đối với việc phòng, chống tha hóa quyền lực, tham nhũng, tập trung thực hiện có chất lượng, hiệu quả nhiệm vụ trọng tâm của toàn ngành kiểm tra Đảng là kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên, kể cả cấp ủy viên cùng cấp khi có dấu hiệu vi phạm. Xử lý “công minh, chính xác, kịp thời”, đồng bộ, “không có vùng cấm, không có vùng trống, không có vùng trắng, không có ngoại lệ, không có nhân nhượng, không có điểm dừng” đối với những cán bộ, đảng viên, dù bất kể là ai, giữ cương vị gì có các hành vi tha hóa quyền lực, tham nhũng.

Sáu là, tăng cường hợp tác trao đổi kinh nghiệm về phương thức cầm quyền và việc kiểm soát quyền lực với các đảng cầm quyền trên thế giới. Đảng phải chú trọng xây dựng bộ máy rất tinh gọn, không bao biện, làm thay chính quyền; thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, lấy tư tưởng dân chủ chỉ đạo toàn bộ quá trình hoạt động của đảng; bảo đảm hoạt động cầm quyền và hiệu quả cầm quyền của đảng phản ánh lợi ích căn bản của đông đảo quần chúng nhân dân. Tuần tự thúc đẩy dân chủ trong các khâu bầu cử, ra quyết sách, quản lý và giám sát. Lấy phát triển dân chủ trong đảng để dẫn dắt dân chủ trong chính quyền và xã hội.
Ngay từ những ngày đầu thành lập Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận ra những biểu hiện của sự tha hóa quyền lực. Trong bài “Sao cho được lòng dân” đăng trên Báo Cứu quốc ngày 12-10-1945, với bút danh Chiến Thắng, Người đã viết: “Thứ nhất, dân ghét các ông chủ tịch, các ông ủy viên vì cái tật ngông nghênh, cậy thế cậy quyền. Những ông này không hiểu nhiệm vụ và chính sách của Việt Minh, nên khi nắm được chút quyền trong tay vẫn hay lạm dụng…”; “Người ta còn bửu môi nói đến bà “thủ trưởng” nọ bận quần áo chẽn, tóc cắt ngắn cưỡi ngựa đi rong khắp chỗ mà chẳng có việc gì, người ta còn thì thào chỉ trỏ ông tỉnh trưởng kia vác ô tô đưa bà “tỉnh trưởng” đi chơi mát mỗi buổi chiều”...

 Không có sự dân chủ trong cầm quyền, sự cầm quyền của đảng sẽ không có cơ sở vững chắc, đảng cũng không thể giành được sự tin tưởng, ủng hộ lâu dài của nhân dân. Không có dân chủ thì sự kiểm soát quyền lực sẽ không thực chất, có khi chỉ còn là hình thức.

 
Đặc điểm tâm lý của người Việt Nam là sự “duy tình” cũng là một trong những nhân tố khách quan ảnh hưởng đến kiểm soát quyền lực nhằm ngăn chặn, đẩy lùi sự tha hóa quyền lực.

CAO VĂN THỐNG

Ủy viên Ủy ban Kiểm tra Trung ương

Bài đăng trên Tạp chí Tuyên giáo in số tháng 4 năm 2019

Phản hồi

Các tin khác

Thư viện ảnh

Liên kết website

Mới nhất