"Như chúng ta đều đã biết,
Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập vào ngày 03 tháng 02 năm 1930; có
nghĩa là đến ngày 03 tháng 02 năm 2025 tới đây, Đảng ta sẽ tròn 95 tuổi
và đến năm 2030 sẽ tròn 100 tuổi; đây là những mốc son chói lọi, có ý
nghĩa lịch sử to lớn của Đảng, của Đất nước và Dân tộc ta. Hiện nay,
toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đang chung sức đồng lòng, tranh thủ
mọi thời cơ và thuận lợi, vượt qua mọi khó khăn và thách thức, quyết tâm
thực hiện thắng lợi nhiều chủ trương, mục tiêu, nhiệm vụ được đề ra
trong Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng; đồng thời, khởi động quá trình
chuẩn bị cho đại hội đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XIV của Đảng. Đại hội XIV sẽ đi sâu kiểm điểm, đánh giá
việc thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII, tổng kết 40 năm tiến hành công
cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, từ đó rút ra
những bài học quan trọng; xác định phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ của
toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trong 5 năm tới (2026 - 2030); tiếp
tục thực hiện thắng lợi Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm
(2021 - 2030). Đại hội XIV sẽ lại là một dấu mốc quan trọng trên con
đường phát triển của đất nước ta, dân tộc ta, có ý nghĩa định hướng
tương lai; khích lệ, cổ vũ, động viên toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta
tiếp tục kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, khẳng định đây là
sự lựa chọn đúng đắn, sáng suốt, phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu
thế phát triển của thời đại; tiếp tục đẩy mạnh toàn diện và đồng bộ công
cuộc đổi mới, bảo vệ vững chắc Tổ quốc; phấn đấu đến năm 2030, kỷ niệm
100 năm thành lập Đảng: Nước ta sẽ là nước đang phát triển, có công
nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao.
Để góp phần thiết thực kỷ niệm Ngày thành lập Đảng 03/02/2024, khơi
dậy niềm tự hào về Đảng quang vinh, Bác Hồ vĩ đại, Dân tộc Việt Nam anh
hùng; tăng cường niềm tin đối với sự lãnh đạo của Đảng và tương lai tươi
sáng của Đất nước ta, Dân tộc ta; cũng như nêu cao hơn nữa trách nhiệm
của cán bộ, đảng viên trong toàn hệ thống chính trị, tiếp tục phát huy
tinh thần yêu nước và cách mạng của toàn dân tộc, quyết tâm xây dựng đất
nước ta ngày càng giàu mạnh, văn minh, văn hiến và anh hùng, chúng ta
cần nhìn lại, đánh giá một cách khách quan, toàn diện những kết quả,
thành tựu và bài học kinh nghiệm chủ yếu mà Đảng ta, Đất nước ta, Dân
tộc ta đã đạt được qua các chặng đường lịch sử: (1) Đảng ra đời, lãnh
đạo cách mạng, giành chính quyền (từ năm 1930 đến năm 1945); (2) Toàn
quốc kháng chiến, lập lại hòa bình ở miền Bắc (từ năm 1946 đến năm
1954); (3) Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc; đấu tranh giải phóng
miền Nam, thống nhất đất nước (từ năm 1955 đến năm 1975); (4) Khắc phục
hậu quả chiến tranh, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, từng bước đi
lên chủ nghĩa xã hội (từ năm 1976 đến năm 1985); (5) Tiến hành công cuộc
đổi mới, xây dựng đất nước ta ngày càng đàng hoàng hơn, to đẹp hơn; mở
rộng quan hệ đối ngoại, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện và
sâu rộng; đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và
uy tín quốc tế như ngày nay (từ năm 1986 đến nay); (6) và từ nay đến năm
2030, kỷ niệm 100 năm Ngày thành lập Đảng. Từ đó, đề ra các nhiệm vụ và
giải pháp nhằm tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo - cầm quyền của
Đảng; đẩy mạnh đồng bộ và toàn diện công cuộc đổi mới; thực hiện thắng
lợi mục tiêu mà Đại hội XIII của Đảng đã đề ra là đến năm 2025 và năm
2030 xây dựng đất nước ta ngày càng giàu mạnh, dân chủ, phồn vinh, văn
minh, hạnh phúc, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Bài viết này là một
trong những ý tưởng theo tinh thần nêu trên và xin được trình bày theo
bố cục gồm 3 phần chính như sau:
PHẦN THỨ NHẤT
ĐẢNG TA RA ĐỜI, LÃNH ĐẠO ĐẤU TRANH GIÀNH ĐỘC LẬP DÂN TỘC, GIẢI PHÓNG MIỀN NAM, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC
Lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc ta đã chứng minh rằng, yêu nước và
giữ nước, kiên quyết chống ngoại xâm, bảo vệ độc lập, chủ quyền và
thống nhất đất nước là truyền thống cực kỳ quý báu của dân tộc ta. Nối
tiếp truyền thống đó, từ giữa thế kỷ XIX, khi thực dân Pháp xâm lược
nước ta, không cam chịu làm thân phận nô lệ, Nhân dân ta đã liên tiếp
vùng lên đấu tranh qua các phong trào yêu nước diễn ra liên tục và mạnh
mẽ bằng nhiều con đường với nhiều khuynh hướng khác nhau. Từ con đường
cứu nước của các sĩ phu cho đến các cuộc khởi nghĩa nông dân và con
đường cách mạng tư sản... mặc dù đã đấu tranh rất kiên cường, đầy tâm
huyết và chịu những hy sinh to lớn, song, do hạn chế lịch sử, nhất là
thiếu một đường lối đúng, các phong trào đó đã không thành công. Lịch sử
đòi hỏi phải tìm con đường mới.
Năm 1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành (tức là Bác Hồ
muôn vàn kính yêu của chúng ta) đã ra đi tìm con đường mới cho sự nghiệp
cứu nước, đấu tranh giành độc lập dân tộc. Mang trong mình khát vọng
lớn lao, cháy bỏng, Người đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, tìm thấy ở
học thuyết cách mạng này con đường cứu nước đúng đắn - con đường cách
mạng vô sản. Sau nhiều năm bôn ba hoạt động ở nước ngoài, Người đã kiên
trì nghiên cứu, học tập, vận dụng sáng tạo và từng bước truyền bá chủ
nghĩa Mác - Lênin về Việt Nam, dày công chuẩn bị những điều kiện cần
thiết cho việc thành lập một đảng cách mạng chân chính. Ngày 03/02/1930,
Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản họp ở bán đảo Cửu Long, thuộc
Hồng Kông (Trung Quốc), dưới sự chủ trì của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, đã
quyết định thống nhất các tổ chức cộng sản ở nước ta thành một Đảng duy
nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây là một bước ngoặt lịch sử
trọng đại, chấm dứt cuộc khủng hoảng kéo dài về tổ chức và đường lối của
cách mạng Việt Nam. Việc Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là thành quả của
sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong
trào yêu nước; chứng tỏ giai cấp công nhân Việt Nam đã trưởng thành và
đủ sức gánh vác sứ mệnh lịch sử lãnh đạo cách mạng. Luận cương chính trị
đầu tiên của Đảng được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng đã xác
định con đường cơ bản của cách mạng Việt Nam, đáp ứng yêu cầu cấp thiết
của Dân tộc và nguyện vọng tha thiết của Nhân dân. Sau khi ra đời, gắn
bó máu thịt với Nhân dân, được Nhân dân đồng tình, ủng hộ và tin tưởng
tuyệt đối; chỉ trong vòng 15 năm, Đảng ta đã lãnh đạo cuộc đấu tranh
giải phóng dân tộc, tiến hành ba cao trào cách mạng: Cao trào cách mạng
1930 - 1931, với đỉnh cao là phong trào Xô Viết - Nghệ Tĩnh; Cao trào
cách mạng đòi dân sinh, dân chủ (1936 - 1939) và Cao trào cách mạng giải
phóng dân tộc (1939 - 1945), để đến năm 1945, khi thời cơ cách mạng
chín muồi, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo toàn thể dân tộc Việt Nam
làm nên thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 "long trời, lở
đất", thành lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà vào ngày 02/9/1945
(năm 2025 chúng ta sẽ kỷ niệm tròn 80 năm).
Ngay sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, cách mạng đã phải
đối mặt với nhiều khó khăn, thử thách; cùng một lúc phải đương đầu với
"giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm". Trong hoàn cảnh hiểm nghèo đó,
Đảng đã lãnh đạo Nhân dân ta vượt qua tình thế "ngàn cân treo sợi tóc",
kiên cường bảo vệ và xây dựng chính quyền non trẻ, đồng thời tích cực
chuẩn bị về mọi mặt để bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm
lược. Trên cơ sở đường lối kháng chiến "toàn dân", "toàn diện", "trường
kỳ", "dựa vào sức mình là chính", phát huy truyền thống đoàn kết, yêu
nước của toàn dân tộc, Đảng ta đã lãnh đạo Nhân dân ta lần lượt đánh bại
mọi âm mưu, kế hoạch xâm lược của kẻ thù, đặc biệt là thắng lợi trong
Chiến cuộc Đông Xuân 1953 - 1954 với đỉnh cao là Chiến thắng lịch sử
Điện Biên Phủ "lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu", buộc thực dân Pháp
phải ký Hiệp định Giơ-ne-vơ (năm 1954), chấm dứt cuộc chiến tranh xâm
lược Việt Nam.
Từ năm 1955 đến năm 1975, đất nước ta lại bị chia cắt làm hai miền.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, miền Bắc vừa nỗ lực xây dựng chủ nghĩa xã hội
và chống lại cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, vừa dốc sức làm
tròn nghĩa vụ của hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn miền Nam. Nhân
dân miền Nam tiếp tục cuộc đấu tranh kiên cường để giành độc lập dân
tộc, thống nhất đất nước. Với tinh thần "thà hy sinh tất cả chứ nhất
định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ", "không có gì
quý hơn độc lập, tự do"; trên cơ sở đường lối đúng đắn, sáng tạo của
Đảng, với sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, quân và dân ta đã lần lượt
đánh bại các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ, giải phóng hoàn
toàn miền Nam, thống nhất đất nước, thu giang sơn về một mối vào ngày
30/4/1975. Thắng lợi đó "mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một
trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn
thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người Việt Nam, và
đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự
kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc" (năm
2025 chúng ta sẽ kỷ niệm tròn 50 năm).
Trong lúc phải khẩn trương khắc phục những hậu quả vô cùng nặng nề do
chiến tranh để lại, Nhân dân Việt Nam lại tiếp tục phải đương đầu với
những cuộc chiến tranh mới. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân và dân ta
vừa tập trung khôi phục kinh tế - xã hội, vừa chiến đấu bảo vệ biên
giới, giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ thiêng liêng của Tổ
quốc; đồng thời, làm tròn nghĩa vụ quốc tế giúp nhân dân Cam-pu-chia
thoát khỏi họa diệt chủng và tiến hành công cuộc hồi sinh đất nước.
Nhìn lại chặng đường 1930 - 1975, chúng ta rất đỗi tự hào, tin tưởng
và biết ơn sâu sắc Đảng quang vinh, Bác Hồ vĩ đại đã luôn luôn sáng suốt
lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi vang dội này đến thắng lợi
vang dội khác, viết tiếp vào lịch sử của Dân tộc Việt Nam văn hiến và
anh hùng những trang vàng chói lọi, được thế giới ngưỡng mộ, đánh giá
cao: Tiến hành thắng lợi cuộc Cách mạng Tháng Tám long trời lở đất,
giành chính quyền về tay Nhân dân, đưa nước ta ra khỏi ách nô lệ của
thực dân, đế quốc vào năm 1945; Trường kỳ kháng chiến chống thực dân
Pháp xâm lược, kết thúc bằng Hiệp định Giơ-ne-vơ và thắng lợi của chiến
dịch Điện Biên phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu; Vừa xây dựng
chủ nghĩa xã hội và chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở miền
Bắc, vừa đấu tranh chống Mỹ cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất
đất nước, kết thúc bằng chiến dịch Điện Biên Phủ trên không và chiến
dịch Hồ Chí Minh lịch sử.”
PHẦN THỨ HAI
ĐẢNG LÃNH ĐẠO KHẮC PHỤC HẬU QUẢ CHIẾN TRANH; TIẾN HÀNH CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ; XÂY DỰNG ĐẤT NƯỚC TA NGÀY CÀNG ĐÀNG HOÀNG HƠN, TO ĐẸP HƠN
Sau khi đất nước được thống nhất, nước ta phải đối mặt với nhiều hậu
quả rất nặng nề của 30 năm chiến tranh để lại. Để khắc phục hậu quả
chiến tranh, tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước,
Đảng ta đã tập trung lãnh đạo xây dựng và triển khai thực hiện kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 1976 - 1980 và 1981 - 1985. Qua đó, hạ
tầng kinh tế - xã hội, nhất là các cơ sở công nghiệp, nông nghiệp, y
tế, giáo dục - đào tạo, giao thông, thủy lợi từng bước được khôi phục.
Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể được chăm lo phát triển, có nhiều đóng
góp cho sự phát triển của đất nước.
Tuy nhiên, trước những yêu cầu mới của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc trong điều kiện đất nước đã hòa bình, để khắc phục những bất cập
của cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp, dẫn tới sự khủng
hoảng kinh tế - xã hội những năm sau chiến tranh, trên cơ sở tổng kết
sáng kiến, sáng tạo trong thực tiễn của Nhân dân, Đảng ta đã tiến hành
công cuộc đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xã
hội, từng phần trong nông nghiệp, công nghiệp và từng bước hình thành
Đường lối đổi mới đất nước. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của
Đảng (tháng 12/1986), trên cơ sở phân tích sâu sắc tình hình đất nước và
qua quá trình tìm tòi, khảo nghiệm thực tiễn, với tinh thần "nhìn thẳng
vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật", "đổi mới tư duy"
đã đề ra Đường lối đổi mới toàn diện đất nước, đánh dấu bước ngoặt quan
trọng trên con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đường lối
đổi mới ra đời đã đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn lịch sử, thể hiện bản
lĩnh vững vàng, tư duy sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và mở ra một
thời kỳ mới cho sự phát triển của đất nước.
Sau Đại hội VI, Đảng đã từng bước hoàn thiện, cụ thể hóa đường lối
đổi mới mà nội dung cơ bản, cốt lõi được thể hiện trong Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh năm
1991 và Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011) và các văn kiện quan
trọng của Đảng qua các kỳ Đại hội. Những năm 90 của thế kỷ XX, vượt qua
thách thức từ sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô
và các nước Đông Âu, Đảng Cộng sản Việt Nam, Dân tộc Việt Nam đã kiên
định, tiếp tục vững bước và sáng tạo trên con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội phù hợp với điều kiện cụ thể và đặc điểm của Việt Nam. Ban Chấp hành
Trung ương Đảng từ khóa VI đến khóa XIII đã ban hành nhiều nghị quyết
về những vấn đề cơ bản, hệ trọng của Đảng và sự phát triển của đất nước.
Cho đến nay, mặc dù vẫn còn một số vấn đề cần tiếp tục đi sâu nghiên
cứu, nhưng chúng ta đã hình thành nhận thức tổng quát: Xã hội xã hội chủ
nghĩa mà Nhân dân Việt Nam đang phấn đấu xây dựng là một xã hội dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do Nhân dân làm chủ; có
nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan
hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện
phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng,
đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân do Đảng
Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế
giới.
Để thực hiện được mục tiêu đó, chúng ta đã xác định cần phải: Đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế
tri thức; Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa;
Xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con
người, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân, thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội; Bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh
quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; Thực hiện đường lối đối ngoại độc
lập, tự chủ, đa phương hoá, đa dạng hóa; hòa bình, hữu nghị, hợp tác và
phát triển, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng; Xây
dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn
kết toàn dân tộc, kết hợp với sức mạnh thời đại; Xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; xây dựng
Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện.
Càng đi vào chỉ đạo thực tiễn, Đảng ta càng nhận thức được rằng, quá
độ lên chủ nghĩa xã hội là một sự nghiệp lâu dài, vô cùng khó khăn và
phức tạp, vì nó phải tạo ra được sự biến đổi sâu sắc về chất trên tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội. Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội từ
một nước nông nghiệp lạc hậu, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa; lực lượng
sản xuất rất thấp, lại phải trải qua mấy chục năm chiến tranh, hậu quả
rất nặng nề; các thế lực thù địch thường xuyên tìm cách phá hoại cho nên
lại càng khó khăn, phức tạp, do đó nhất thiết phải trải qua một thời kỳ
quá độ lâu dài với nhiều bước đi, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã
hội đan xen nhau, có sự đấu tranh giữa cái cũ và cái mới. Nói bỏ qua chế
độ tư bản chủ nghĩa là bỏ qua chế độ áp bức, bất công, bóc lột tư bản
chủ nghĩa; bỏ qua những thói hư tật xấu, những thiết chế, thể chế chính
trị không phù hợp với chế độ xã hội chủ nghĩa, chứ không phải bỏ qua cả
những thành tựu, giá trị văn minh mà nhân loại đã đạt được trong thời kỳ
phát triển chủ nghĩa tư bản. Đương nhiên, việc kế thừa những thành tựu
này cũng phải có sự chọn lọc trên quan điểm khoa học, phát triển.
Đưa ra khái niệm phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa là một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng ta, là
thành quả lý luận quan trọng qua gần 40 năm thực hiện đường lối đổi mới,
xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của
thế giới. Theo nhận thức của chúng ta, kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận
hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự
quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt
Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đó là một kiểu
kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển của kinh tế thị trường;
một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị
trường vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc
và bản chất của chủ nghĩa xã hội, thể hiện trên cả ba mặt: Sở hữu, tổ
chức quản lý và phân phối. Đây không phải là nền kinh tế thị trường tư
bản chủ nghĩa và cũng chưa phải là nền kinh tế thị trường xã hội chủ
nghĩa đầy đủ (vì nước ta còn đang trong thời kỳ quá độ).
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều
hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế. Các thành phần kinh tế hoạt
động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế,
bình đẳng trước pháp luật cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh
tranh lành mạnh. Trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế
tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố và phát triển; kinh
tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; kinh tế có vốn
đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển phù hợp với chiến lược,
quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Quan hệ phân phối bảo đảm công
bằng và tạo động lực cho phát triển; thực hiện chế độ phân phối chủ yếu
theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn
cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội,
phúc lợi xã hội. Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng pháp luật, chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách và lực lượng vật chất để định
hướng, điều tiết, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Một đặc trưng cơ bản, một thuộc tính quan trọng của định hướng xã hội
chủ nghĩa trong kinh tế thị trường ở Việt Nam là phải gắn kinh tế với
xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng
kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong
từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển. Điều đó
có nghĩa là: Không chờ đến khi kinh tế đạt tới trình độ phát triển cao
rồi mới thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; càng không "hy sinh" tiến
bộ và công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần. Trái
lại, mỗi chính sách kinh tế đều phải hướng tới mục tiêu phát triển xã
hội; mỗi chính sách xã hội phải nhằm tạo ra động lực thúc đẩy phát triển
kinh tế; khuyến khích làm giàu hợp pháp phải đi đôi với xoá đói, giảm
nghèo bền vững, chăm sóc những người có công, những người có hoàn cảnh
khó khăn. Đây là một yêu cầu có tính nguyên tắc để bảo đảm sự phát triển
lành mạnh, bền vững, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Chúng ta coi văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, sức mạnh nội
sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc; xác định phát
triển văn hoá đồng bộ, hài hòa với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công
bằng xã hội là một định hướng căn bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam. Nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hoá tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, một nền văn hoá thống nhất trong đa dạng,
dựa trên các giá trị tiến bộ, nhân văn; chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội;
kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của tất cả các
dân tộc trong nước, tiếp thu những thành tựu, tinh hoa văn hoá nhân
loại, phấn đấu xây dựng một xã hội văn minh, lành mạnh vì lợi ích chân
chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực,
lối sống và thẩm mỹ ngày càng cao. Đảng ta luôn xác định: Con người giữ
vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển; phát triển văn hóa, xây
dựng con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới;
phát triển giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ là quốc sách hàng
đầu; bảo vệ môi trường là một trong những vấn đề sống còn, là tiêu chí
để phát triển bền vững; xây dựng gia đình hạnh phúc, tiến bộ làm tế bào
lành mạnh, vững chắc của xã hội, thực hiện bình đẳng giới là tiêu chí
của tiến bộ, văn minh.
Xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân
văn, dựa trên nền tảng lợi ích chung của toàn xã hội hài hòa với lợi
ích chính đáng của con người, khác hẳn về chất so với các xã hội cạnh
tranh để chiếm đoạt lợi ích riêng giữa các cá nhân và phe nhóm, do đó
cần và có điều kiện để xây dựng sự đồng thuận xã hội thay vì đối lập,
đối kháng xã hội. Trong chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa, mối quan hệ
giữa Đảng, Nhà nước và Nhân dân là mối quan hệ giữa các chủ thể thống
nhất về mục tiêu và lợi ích; mọi đường lối của Đảng, chính sách, pháp
luật và hoạt động của Nhà nước đều vì lợi ích của Nhân dân, lấy hạnh
phúc của Nhân dân làm mục tiêu phấn đấu. Mô hình chính trị và cơ chế vận
hành tổng quát là Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và Nhân dân làm chủ.
Dân chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, vừa là mục tiêu, vừa là
động lực của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội; xây dựng nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về Nhân dân là một
nhiệm vụ trọng yếu, lâu dài của cách mạng Việt Nam. Đảng ta chủ trương
không ngừng phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa thực sự của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, trên cơ sở liên
minh giữa công nhân, nông dân và trí thức do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh
đạo. Nhà nước đại diện cho quyền làm chủ của Nhân dân, đồng thời là
người tổ chức thực hiện đường lối của Đảng; có cơ chế để Nhân dân thực
hiện quyền làm chủ trực tiếp và dân chủ đại diện trên các lĩnh vực của
đời sống xã hội, tham gia quản lý xã hội. Chúng ta nhận thức rằng, nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa về bản chất khác với nhà nước pháp
quyền tư sản là ở chỗ: Pháp quyền dưới chế độ tư bản chủ nghĩa về thực
chất là công cụ bảo vệ và phục vụ cho lợi ích của giai cấp tư sản, còn
pháp quyền dưới chế độ xã hội chủ nghĩa là công cụ thể hiện và thực hiện
quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm và bảo vệ lợi ích của đại đa số
nhân dân. Thông qua thực thi pháp luật, Nhà nước bảo đảm các điều kiện
để Nhân dân là chủ thể của quyền lực chính trị, thực hiện chuyên chính
với mọi hành động xâm hại lợi ích của Tổ quốc và Nhân dân. Đồng thời,
Đảng ta xác định: Đại đoàn kết toàn dân tộc là nguồn sức mạnh và là nhân
tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp cách
mạng ở Việt Nam; không ngừng thúc đẩy sự bình đẳng và đoàn kết giữa các
dân tộc, tôn giáo.
Nhận thức sâu sắc sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định
thắng lợi của công cuộc đổi mới và bảo đảm cho đất nước phát triển theo
đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta đặc biệt chú trọng công tác
xây dựng, chỉnh đốn Đảng, coi đây là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống
còn đối với Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa. Đảng Cộng sản Việt Nam là
đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam; Đảng ra đời, tồn tại và
phát triển là vì lợi ích của giai cấp công nhân, Nhân dân lao động và
của cả dân tộc. Khi Đảng cầm quyền, lãnh đạo cả dân tộc, được toàn dân
thừa nhận là đội tiên phong lãnh đạo của mình và do đó Đảng là đội tiên
phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của Nhân dân
lao động và của cả dân tộc Việt Nam. Nói như vậy không có nghĩa là hạ
thấp bản chất giai cấp của Đảng, mà là thể hiện sự nhận thức bản chất
giai cấp của Đảng một cách sâu sắc hơn, đầy đủ hơn, vì giai cấp công
nhân là giai cấp có lợi ích thống nhất với lợi ích của Nhân dân lao động
và toàn dân tộc. Đảng ta kiên trì lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động cách
mạng, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản. Đảng lãnh đạo
bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương
lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm
tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên; thống nhất lãnh
đạo công tác cán bộ. Ý thức được nguy cơ đối với đảng cầm quyền là tham
nhũng, quan liêu, thoái hóa v.v..., nhất là trong điều kiện kinh tế thị
trường, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đặt ra yêu cầu phải thường xuyên tự
đổi mới, tự chỉnh đốn, đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa cá
nhân, chống tham nhũng, quan liêu, lãng phí, thoái hóa v.v... trong nội
bộ Đảng và trong toàn bộ hệ thống chính trị.
Công cuộc đổi mới, trong đó có việc phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã đạt được những thành tựu to lớn có
ý nghĩa lịch sử, thực sự đem lại những thay đổi lớn lao, rất tốt đẹp
cho đất nước trong gần 40 năm qua, góp phần làm cho "Đất nước ta chưa
bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay".
Từ một nước thuộc địa, nửa phong kiến, nước ta đã trở thành một nước
độc lập, có chủ quyền; giang sơn gấm vóc 330 nghìn km2 từ Hữu Nghị Quan
đến Mũi Cà Mau với hơn 3.200 km bờ biển và địa chính trị, địa kinh tế có
tầm quan trọng đặc biệt đã được thu về một mối. Trước Đổi mới (năm
1986), Việt Nam vốn là một nước nghèo lại bị chiến tranh tàn phá rất
nặng nề, để lại những hậu quả hết sức to lớn cả về người, về của và môi
trường sinh thái. Sau chiến tranh, Mỹ và Phương Tây đã áp đặt bao vây,
cấm vận kinh tế với Việt Nam trong suốt gần 20 năm. Tình hình khu vực và
quốc tế cũng diễn biến phức tạp, gây nhiều bất lợi cho chúng ta. Lương
thực, hàng hóa nhu yếu phẩm hết sức thiếu thốn, đời sống nhân dân hết
sức khó khăn, khoảng 3/4 dân số sống dưới mức nghèo khổ.
Nhờ thực hiện đường lối đổi mới, nền kinh tế bắt đầu phát triển và
tăng trưởng liên tục với tốc độ tương đối cao trong suốt 40 năm qua với
mức tăng trưởng trung bình gần 7% mỗi năm. Quy mô GDP không ngừng được
mở rộng, năm 2023 đạt khoảng 430 tỉ đô la Mỹ (USD), trở thành nền kinh
tế lớn thứ 5 trong ASEAN và thứ 35 trong 40 nền kinh tế lớn nhất thế
giới. GDP bình quân đầu người tăng 58 lần, lên mức khoảng 4.300 USD năm
2023; Việt Nam đã ra khỏi nhóm các nước có thu nhập thấp từ năm 2008 và
sẽ trở thành nước có thu nhập trung bình cao vào năm 2030 (khoảng 7.500
USD). Từ một nước bị thiếu lương thực triền miên, đến nay Việt Nam không
những đã bảo đảm được an ninh lương thực mà còn trở thành một nước xuất
khẩu gạo và nhiều nông sản khác đứng hàng đầu thế giới. Công nghiệp và
dịch vụ phát triển khá nhanh, liên tục tăng và hiện nay chiếm khoảng 88%
GDP. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu tăng mạnh, năm 2023 đạt gần 700 tỉ
USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt trên 355 tỉ USD, xuất siêu đạt mức
kỷ lục 28 tỉ USD; Việt Nam đã trở thành đối tác thương mại lớn thứ 22
toàn cầu. Dự trữ ngoại hối tăng mạnh, đạt 100 tỉ USD vào năm 2023. Đầu
tư nước ngoài liên tục phát triển, vốn đăng ký tăng 32%, vốn thực hiện
tăng 3%, đạt 23 tỉ USD trong năm 2023, cao nhất từ trước đến nay; và
Việt Nam đã trở thành một trong những quốc gia hàng đầu ASEAN về thu hút
FDI. Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) của Việt Nam năm 2023 được
các tổ chức quốc tế đánh giá đứng thứ 46/132 nước được xếp hạng.
Hiện Việt Nam vẫn đang ở thời kỳ dân số vàng với quy mô dân số hơn
100 triệu người (năm 1945, 1975, 1986 lần lượt là hơn 20, 47 và 61 triệu
người), đứng thứ 16 thế giới, trong đó có khoảng 53 triệu lao động từ
15 tuổi trở lên và 54 dân tộc anh em; khối đại đoàn kết các dân tộc
không ngừng được củng cố, tăng cường. Chất lượng dân số từng bước được
cải thiện, nâng cao gắn với sự chăm lo đầu tư phát triển các ngành y tế,
giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ theo đúng tinh thần coi ưu tiên
đầu tư phát triển các lĩnh vực này là quốc sách hàng đầu; hiện đã có
12,5 bác sĩ và 32 giường bệnh trên 1 vạn dân; cùng với Trung Quốc, Việt
Nam được Ngân hàng thế giới (WB) đánh giá là hai quốc gia tiên phong
trong đổi mới giáo dục và đã đạt được sự phát triển rất ấn tượng trong
lĩnh vực này.
Phát triển kinh tế đã giúp đất nước thoát khỏi tình trạng khủng hoảng
kinh tế - xã hội những năm 80 và cải thiện đáng kể đời sống của Nhân
dân. Tỉ lệ hộ nghèo trung bình mỗi năm giảm khoảng 1,5%; giảm từ 58%
theo chuẩn cũ năm 1993 của Chính phủ xuống còn 2,93% theo chuẩn nghèo đa
chiều (tiêu chí cao hơn trước) năm 2023. Đến nay, có 78% số xã đạt
chuẩn nông thôn mới; hầu hết các xã nông thôn đều có đường ô tô đến
trung tâm, có điện lưới quốc gia, trường tiểu học và trung học cơ sở,
trạm y tế và mạng điện thoại. Quá trình đô thị hoá được đẩy mạnh gắn với
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; tỉ lệ đô thị hoá đã
đạt khoảng 43%; hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội ở cả nông thôn
và đô thị, nhất là hạ tầng y tế, giáo dục - đào tạo, giao thông, bưu
chính viễn thông đều có bước phát triển mạnh mẽ; đã đưa vào sử dụng
nhiều sân bay, bến cảng hiện đại, hơn 1.900 km đường cao tốc và phủ sóng
rộng rãi mạng 4G, 5G.
Trong khi chưa có điều kiện để bảo đảm giáo dục miễn phí cho mọi
người ở tất cả các cấp, Việt Nam tập trung hoàn thành xoá mù chữ, phổ
cập giáo dục tiểu học vào năm 2000 và phổ cập giáo dục trung học cơ sở
năm 2014; số sinh viên đại học, cao đẳng tăng gần 20 lần trong gần 40
năm qua. Hiện nay, Việt Nam có gần 99% số người lớn biết đọc, biết viết.
Trong khi chưa thực hiện được việc bảo đảm cung cấp dịch vụ y tế miễn
phí cho toàn dân, Việt Nam mở rộng diện bảo hiểm y tế bắt buộc và tự
nguyện, đến nay đã đạt mức 93,35% (năm 1993 mới chỉ là 5,4%); đồng thời
tập trung vào việc tăng cường y tế phòng ngừa, phòng, chống dịch bệnh,
hỗ trợ các đối tượng có hoàn cảnh khó khăn. Nhiều dịch bệnh vốn phổ biến
trước đây đã được khống chế thành công. Người nghèo, trẻ em dưới 6 tuổi
và người cao tuổi được cấp bảo hiểm y tế miễn phí. Tỉ lệ suy dinh dưỡng
ở trẻ em và tỉ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh giảm gần 3 lần. Tuổi thọ trung
bình của dân cư tăng từ 62 tuổi năm 1990 lên 73,7 tuổi năm 2023. Cũng
nhờ kinh tế có bước phát triển nên chúng ta đã có điều kiện để chăm sóc
tốt hơn những người có công, phụng dưỡng các Bà Mẹ Việt Nam Anh hùng,
chăm lo cho phần mộ của các liệt sĩ đã hy sinh cho Tổ quốc. Đời sống văn
hóa cũng được cải thiện đáng kể; sinh hoạt văn hoá phát triển phong
phú, đa dạng. Hiện Việt Nam có gần 80% dân số sử dụng Internet, là một
trong những nước có tốc độ phát triển công nghệ tin học cao nhất thế
giới. Liên hợp quốc đã công nhận Việt Nam là một trong những nước đi đầu
trong việc hiện thực hóa các Mục tiêu Thiên niên kỷ. Năm 2022, chỉ số
phát triển con người (HDI) của Việt Nam đạt mức 0,737, thuộc nhóm nước
có HDI cao của thế giới, nhất là so với các nước có trình độ phát triển
cao hơn. Chỉ số hạnh phúc của Việt Nam năm 2023 được các tổ chức xếp thứ
65/137 quốc gia được xếp hạng.
Trong điều kiện xây dựng, phát triển đất nước trong hòa bình, Đảng ta
vẫn thường xuyên sát sao lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc; đã
ban hành và chỉ đạo tổ chức thực hiện thắng lợi nhiều Chiến lược bảo vệ
Tổ quốc qua các thời kỳ; mới đây nhất là Nghị quyết Trung ương 8 khóa
XIII về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Trong đó, đã
khẳng định: Luôn luôn phải giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối,
trực tiếp về mọi mặt của Đảng; sự quản lý, điều hành tập trung, thống
nhất của Nhà nước đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; dựa vào
dân, lấy "dân là gốc", khơi dậy, phát huy ý chí tự lực, tự cường, truyền
thống văn hoá, yêu nước, sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây
dựng "thế trận lòng dân", lấy "yên dân" là nhân tố quyết định mọi thắng
lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chú trọng bảo đảm cao nhất
lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến
chương Liên hợp quốc, luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có
lợi. Tập trung ưu tiên thực hiện thắng lợi đồng bộ các nhiệm vụ chính
trị: Phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then
chốt; phát triển văn hoá là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an
ninh là trọng yếu, thường xuyên. Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội; kiên quyết, kiên trì, chủ động tạo lập thời cơ, bảo vệ
vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; giữ vững
môi trường hòa bình, ổn định và điều kiện thuận lợi để xây dựng, phát
triển đất nước. Kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc. Tăng cường đầu tư thích đáng cho việc xây dựng nền quốc
phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân, lực lượng vũ trang nhân dân, đáp
ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa; giữ nước từ khi nước chưa
nguy; tuyệt đối không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống. Kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; chủ động, tích cực hội nhập,
nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế.
Nhờ đó, nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân luôn luôn được củng
cố, tăng cường, nâng cao hiệu quả; chủ quyền quốc gia, môi trường hòa
bình, ổn định luôn luôn được giữ vững; trật tự, an toàn xã hội luôn luôn
được bảo đảm; quân đội nhân dân, công an nhân dân được chăm lo đầu tư,
xây dựng ngày càng tinh, gọn, mạnh cả về chính trị, tư tưởng và vũ khí,
trang thiết bị theo phương châm: Người trước, súng sau; từng bước tiến
lên hiện đại, có một số quân, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện
đại. Các tình huống phức tạp trên biển và tuyến biên giới được xử lý
linh hoạt, hiệu quả và phù hợp. Các biện pháp bảo đảm an ninh chính trị,
trật tự, an toàn xã hội được tăng cường; tập trung trấn áp các loại tội
phạm; bảo đảm an ninh, an toàn các sự kiện chính trị quan trọng của đất
nước. Kịp thời đấu tranh, phản bác các quan điểm, tư tưởng sai trái,
xuyên tạc của các thế lực thù địch, tổ chức phản động; đối thoại thẳng
thắn với những người có chính kiến khác. Chỉ số hòa bình toàn cầu năm
2023 của Việt Nam đứng thứ 41 trong số 163 nước được xếp hạng. Nước ta
được các nhà đầu tư nước ngoài và du khách quốc tế đánh giá là điểm đến
hấp dẫn và an toàn hàng đầu thế giới.
Nhìn lại chặng đường đối ngoại vừa qua, chúng ta vui mừng và tự hào
nhận thấy: Trong gần 40 năm đổi mới, Đảng ta đã kế thừa và phát huy bản
sắc, cội nguồn và truyền thống dân tộc, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa
thế giới và tư tưởng tiến bộ của thời đại, phát triển trên nền tảng lý
luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, hình thành nên
một trường phái đối ngoại, ngoại giao rất đặc sắc và độc đáo, mang đậm
bản sắc "cây tre Việt Nam". Đó là vừa kiên định về nguyên tắc, vừa uyển
chuyển về sách lược; mềm mại, khôn khéo nhưng cũng rất kiên cường, quyết
liệt; linh hoạt, sáng tạo nhưng rất bản lĩnh, vững vàng trước mọi khó
khăn, thách thức, vì độc lập, tự do của dân tộc, vì hạnh phúc của Nhân
dân; đoàn kết, nhân ái nhưng luôn luôn kiên quyết, kiên trì bảo vệ lợi
ích quốc gia - dân tộc. Kết quả là, từ một nước bị bao vây, cấm vận, đến
nay, nước ta đã mở rộng, làm sâu sắc thêm quan hệ ngoại giao với 193
nước, trong đó có 3 nước quan hệ đặc biệt, 6 nước đối tác chiến lược
toàn diện, 12 nước đối tác chiến lược và 12 nước đối tác toàn diện. Đặc
biệt là, nước ta hiện đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược toàn diện
hoặc đối tác chiến lược với tất cả 5 nước Uỷ viên Thường trực Hội đồng
Bảo an Liên hợp quốc, và mở rộng quan hệ kinh tế - thương mại với 230
quốc gia và vùng lãnh thổ. Việt Nam đã và đang thể hiện tốt vai trò là
bạn, là đối tác tin cậy của cộng đồng quốc tế; có nhiều sáng kiến, đề
xuất và chủ động, tích cực tham gia có hiệu quả vào các hoạt động của
ASEAN, tổ chức Liên hợp quốc và nhiều tổ chức quốc tế khác. Các hoạt
động đối ngoại diễn ra hết sức sôi động, liên tục và là điểm sáng nổi
bật của năm 2023 với nhiều kết quả, thành tựu quan trọng, có ý nghĩa
lịch sử. Lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước ta đã đi thăm chính thức
nhiều nước, tham dự nhiều diễn đàn quốc tế lớn, đạt được nhiều kết quả
quan trọng. Việc tổ chức đón rất thành công Tổng Bí thư, Chủ tịch nước
Trung Quốc Tập Cận Bình, Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden, Tổng Bí thư, Chủ
tịch nước Lào Thongloun Sisoulith, Chủ tịch Đảng Nhân dân Cam-pu-chia
Hun Sen và nhiều nguyên thủ quốc gia các nước đến thăm Việt Nam được
đánh giá là những sự kiện có ý nghĩa lịch sử, góp phần khẳng định "đất
nước ta chưa bao giờ có được vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay".
Những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử của sự nghiệp đổi mới do
Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo tổ chức thực hiện là sản phẩm kết tinh
sức sáng tạo, là kết quả của cả một quá trình nỗ lực phấn đấu bền bỉ,
liên tục qua nhiều nhiệm kỳ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta; tiếp
tục khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta là đúng
đắn, phù hợp với quy luật khách quan, với thực tiễn Việt Nam và xu thế
phát triển của thời đại; đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng
tạo; sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi
của cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh chính trị của Đảng tiếp tục là ngọn
cờ tư tưởng, lý luận dẫn dắt dân tộc ta vững vàng tiếp tục đẩy mạnh toàn
diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; là nền tảng để Đảng ta hoàn thiện
đường lối xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong
giai đoạn mới.
Thực tiễn phong phú và sinh động của cách mạng Việt Nam từ ngày có
Đảng đến nay đã chứng tỏ, sự lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt của Đảng là
nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng, lập nên nhiều
kỳ tích trên đất nước Việt Nam. Mặt khác, thông qua quá trình lãnh đạo
cách mạng, Đảng ta được tôi luyện và ngày càng trưởng thành, xứng đáng
với vai trò và sứ mệnh lãnh đạo cách mạng và sự tin cậy, kỳ vọng của
Nhân dân. Thực tiễn đó khẳng định một chân lý: Ở Việt Nam, không có một
lực lượng chính trị nào khác, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam có đủ bản
lĩnh, trí tuệ, kinh nghiệm, uy tín và khả năng lãnh đạo đất nước vượt
qua mọi khó khăn, thử thách, đưa sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta đi
từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Và cũng chính trong quá trình đó,
Đảng ta đã tích luỹ và đúc rút được nhiều bài học quý báu, hun đúc nên
những truyền thống vẻ vang mà hôm nay chúng ta có trách nhiệm phải ra
sức giữ gìn và phát huy. Đó là truyền thống trung thành vô hạn với lợi
ích của dân tộc và giai cấp, kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh. Đó là truyền thống giữ vững độc lập, tự chủ về đường
lối; nắm vững, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin,
tham khảo kinh nghiệm của quốc tế để đề ra đường lối đúng và tổ chức
thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ cách mạng. Đó là truyền thống gắn bó
máu thịt giữa Đảng và Nhân dân, luôn luôn lấy việc phục vụ Nhân dân làm
lẽ sống và mục tiêu phấn đấu. Đó là truyền thống đoàn kết thống nhất, có
tổ chức và kỷ luật chặt chẽ, nghiêm minh trên cơ sở nguyên tắc tập
trung dân chủ, tự phê bình, phê bình và tình thương yêu đồng chí. Đó là
truyền thống đoàn kết quốc tế thuỷ chung, trong sáng dựa trên những
nguyên tắc và mục tiêu cao cả. Với tất cả sự khiêm tốn của người cách
mạng, chúng ta vẫn có thể nói rằng: "Đảng ta thật là vĩ đại! Nhân dân ta
thật là anh hùng! Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị
thế và uy tín quốc tế như ngày nay".
PHẦN THỨ BA
PHÁT HUY HƠN NỮA TRUYỀN THỐNG YÊU NƯỚC VÀ CÁCH MẠNG VẺ VANG, QUYẾT TÂM THỰC HIỆN THẮNG LỢI MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC ĐẾN NĂM 2025 VÀ NĂM 2030, XÂY DỰNG MỘT NƯỚC VIỆT NAM NGÀY CÀNG GIÀU MẠNH, VĂN MINH, VĂN HIẾN VÀ ANH HÙNG
Chúng ta tự hào, tin tưởng tiến lên dưới lá cờ vẻ vang của Đảng trong
bối cảnh tình hình thế giới, trong nước bên cạnh những thời cơ, thuận
lợi cũng sẽ còn có nhiều khó khăn, thách thức lớn. Trên thế giới, cạnh
tranh chiến lược, cạnh tranh kinh tế, chiến tranh thương mại tiếp tục
diễn ra gay gắt; sự tranh chấp chủ quyền biển, đảo diễn biến phức tạp;
các cuộc xung đột quân sự ở một số khu vực trên thế giới tác động đến
địa chính trị, địa kinh tế, an ninh năng lượng và chuỗi cung ứng toàn
cầu; khoa học - công nghệ và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư phát
triển mạnh mẽ, tạo ra cả thời cơ và thách thức mới đối với mọi quốc gia,
dân tộc; biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh và các vấn đề an ninh
truyền thống, phi truyền thống ngày càng tác động mạnh, nhiều mặt, có
thể đe dọa nghiêm trọng đến sự ổn định, bền vững của thế giới, khu vực
và đất nước ta... Ở trong nước, chúng ta vẫn đang phải đối mặt với nhiều
khó khăn, thách thức lớn: Để hoàn thành được mục tiêu phát triển kinh
tế - xã hội do Đại hội XIII của Đảng đề ra thì tốc độ tăng trưởng bình
quân 6 năm 2024 - 2030 phải đạt khoảng 8%, khu vực công nghiệp chế biến,
chế tạo và dịch vụ phải phát triển mạnh mẽ hơn, tăng khoảng 4,5 điểm
phần trăm đóng góp cho tăng trưởng kinh tế; đây là mức rất cao, đòi hỏi
chúng ta phải có sự quyết tâm cao và nỗ lực rất lớn mới có thể đạt được.
Thị trường tài chính - tiền tệ, nhất là thị trường bất động sản, thị
trường chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp sẽ diễn biến rất phức tạp,
tiềm ẩn nhiều rủi ro. Thanh khoản của một số ngân hàng thương mại yếu
kém và doanh nghiệp, dự án lớn sẽ gặp nhiều khó khăn. Lãi suất ngân hàng
vẫn ở mức cao, sức ép lạm phát còn lớn. Hoạt động sản xuất kinh doanh ở
một số ngành, lĩnh vực có xu hướng suy giảm; số doanh nghiệp rút lui
khỏi thị trường tăng; nhiều doanh nghiệp phải giảm nhân công, giảm giờ
làm, cho người lao động nghỉ việc; đời sống của người lao động gặp nhiều
khó khăn. Giải ngân vốn đầu tư công chưa đạt yêu cầu. Vốn đầu tư nước
ngoài đăng ký mới, đăng ký bổ sung hoặc góp vốn, mua cổ phần giảm. Tốc
độ tăng thu ngân sách nhà nước có dấu hiệu suy giảm; nợ xấu ngân hàng,
nợ thuế nhà nước có xu hướng tăng; bảo đảm an ninh kinh tế, an ninh
mạng, trật tự, an toàn xã hội, chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ nhân dân,...
hiện vẫn là những vấn đề lớn có nhiều khó khăn, thách thức cần khắc
phục. Việc tổ chức thực hiện luật pháp, chính sách, thực thi công vụ vẫn
là khâu yếu; kỷ luật, kỷ cương ở nhiều nơi chưa nghiêm, thậm chí còn có
hiện tượng né tránh, đùn đẩy trách nhiệm; cái gì có lợi thì kéo về cho
cơ quan, đơn vị và cá nhân mình; cái gì khó khăn thì đùn đẩy ra xã hội,
cho cơ quan khác, người khác. Trong khi đó, các thế lực xấu, thù địch,
phản động tiếp tục lợi dụng tình hình này để đẩy mạnh việc thực hiện
chiến lược "diễn biến hòa bình", thúc đẩy "tự diễn biến", "tự chuyển
hóa" trong nội bộ chúng ta nhằm chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ ta.
Tình hình trên đây đòi hỏi chúng ta tuyệt đối không được chủ quan, tự
mãn, quá say sưa với những kết quả, thành tích đã đạt được, và cũng
không quá bi quan, dao động trước những khó khăn, thách thức; mà trái
lại, cần phải hết sức bình tĩnh, sáng suốt, phát huy thật tốt những kết
quả, bài học kinh nghiệm đã có, khắc phục những hạn chế, yếu kém còn tồn
tại, nhất là từ đầu nhiệm kỳ khóa XIII đến nay, để tiếp tục đẩy mạnh
đổi mới, nỗ lực phấn đấu, tranh thủ mọi thời cơ, thuận lợi; vượt qua mọi
khó khăn, thách thức, triển khai thực hiện thắng lợi các chương trình,
kế hoạch, mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra cho nhiệm kỳ khóa XIII và đến năm
2030. Đặc biệt là, cần phải tiếp tục quán triệt, vận dụng sáng tạo những
bài học kinh nghiệm Đại hội XIII của Đảng đã đúc kết được. Đó là, (1)
Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị phải được triển
khai quyết liệt, toàn diện, đồng bộ, thường xuyên, hiệu quả cả về chính
trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Kiên định, vận dụng và phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; nâng cao
năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; thường xuyên
củng cố, tăng cường đoàn kết trong Đảng và hệ thống chính trị; thực hiện
nghiêm các nguyên tắc xây dựng Đảng, thường xuyên đổi mới phương thức
lãnh đạo của Đảng. Xây dựng Nhà nước và hệ thống chính trị trong sạch,
vững mạnh toàn diện; hoàn thiện cơ chế kiểm soát chặt chẽ quyền lực:
Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống suy thoái, "tự diễn biến",
"tự chuyển hóa" trong nội bộ; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham
nhũng, tiêu cực. Công tác cán bộ phải thực sự là "then chốt của then
chốt", tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cán bộ cấp
chiến lược và người đứng đầu đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm
nhiệm vụ; phát huy trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên theo
phương châm chức vụ càng cao càng phải gương mẫu, nhất là Ủy viên Bộ
Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
(2) Trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, phải luôn luôn quán triệt
sâu sắc quan điểm "dân là gốc"; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy
quyền làm chủ của Nhân dân, kiên trì thực hiện phương châm "dân biết,
dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng". Nhân dân
là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống,
nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của Nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm
no của Nhân dân làm mục tiêu phấn đấu. Thắt chặt mối quan hệ mật thiết
giữa Đảng với Nhân dân, dựa vào Nhân dân để xây dựng Đảng; củng cố và
tăng cường niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội
chủ nghĩa. (3) Trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, tổ chức thực hiện,
phải có quyết tâm cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt, năng động, sáng
tạo, tích cực; có bước đi phù hợp, phát huy mọi nguồn lực, động lực và
tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa; kịp thời tháo gỡ các điểm
nghẽn, vướng mắc; đề cao trách nhiệm của người đứng đầu gắn liền với
phát huy sức mạnh đồng bộ của cả hệ thống chính trị; phát huy dân chủ đi
đôi với giữ vững kỷ cương; coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý
luận; thực hiện tốt sự phối hợp trong lãnh đạo, quản lý, điều hành; coi
trọng chất lượng và hiệu quả thực tế; tạo đột phá để phát triển. (4) Tập
trung ưu tiên xây dựng đồng bộ thể chế phát triển, bảo đảm hài hòa giữa
kiên định và đổi mới; kế thừa và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và
đổi mới chính trị, văn hóa, xã hội; giữa tuân theo các quy luật thị
trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế
với phát triển văn hoá, con người, giải quyết các vấn đề xã hội, bảo vệ
tài nguyên, môi trường; giữa phát triển kinh tế, xã hội với bảo đảm quốc
phòng, an ninh; giữa độc lập, tự chủ với hội nhập quốc tế; giữa Đảng
lãnh đạo, Nhà nước quản lý với Nhân dân làm chủ; giữa thực hành dân chủ
với tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội... Thực sự coi trọng,
phát huy hiệu quả vai trò động lực của con người, văn hoá, của giáo dục
và đào tạo, khoa học và công nghệ trong phát triển đất nước. (5) Chủ
động nghiên cứu, nắm bắt, dự báo đúng tình hình, tuyệt đối không được
chủ quan, không để bị động, bất ngờ. Kiên quyết, kiên trì bảo vệ độc
lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc đi đôi với
giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn để phát triển
đất nước. Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng trên
cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường. Xử lý đúng đắn, hiệu
quả mối quan hệ với các nước lớn và các nước láng giềng theo đúng tinh
thần là bạn, là đối tác tin cậy, có trách nhiệm với tất cả các nước
trong cộng đồng quốc tế; đánh giá đúng xu thế, nắm bắt trúng thời cơ.
Phát huy hiệu quả sức mạnh tổng hợp của đất nước kết hợp với sức mạnh
của thời đại. Khai thác, sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực, đáp ứng yêu
cầu của sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc trong
tình hình mới. Xác định những bài học kinh nghiệm đó là cơ sở quan trọng
để Đảng ta tiếp tục vận dụng, phát huy và phát triển sáng tạo trong
lãnh đạo, chỉ đạo, giúp chúng ta kiên định, vững vàng và tự tin vượt qua
những khó khăn, thách thức mới và nhiệm vụ nặng nề hơn khi đất nước
bước vào giai đoạn phát triển mới.
Đồng thời, cần tiếp tục quán triệt, vận dụng
thật tốt một số bài học kinh nghiệm về việc đổi mới phương thức lãnh đạo
và phong cách, lề lối làm việc được rút ra tại Hội nghị Trung ương giữa
nhiệm kỳ khóa XIII:
Một là, Phải luôn luôn nắm vững và nghiêm túc chấp hành Cương lĩnh,
Điều lệ Đảng, Quy chế làm việc và chủ trương, đường lối của Đảng, luật
pháp, chính sách của Nhà nước. Thực hiện thật tốt các nguyên tắc tổ chức
và hoạt động của Đảng, đặc biệt là nguyên tắc tập trung dân chủ; đoàn
kết thống nhất; kiên định, nhất quán, giữ vững nguyên tắc trước những
vấn đề khó khăn, thách thức mới. Đối với những vấn đề lớn, khó, phức
tạp, hệ trọng, cấp bách, nhạy cảm, chưa có tiền lệ, còn có nhiều ý kiến
khác nhau, thì cần phải đưa ra họp bàn, thảo luận một cách dân chủ,
thẳng thắn; cân nhắc cẩn trọng, kỹ lưỡng để có những quyết định kịp
thời, đúng đắn và phù hợp với tình hình.
Hai là, Phải bám sát Chương trình làm việc toàn khóa của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư để xây dựng và thực hiện
cho bằng được chương trình công tác hằng năm, hằng quý, hằng tháng, hằng
tuần theo đúng kế hoạch; đồng thời nhạy bén, linh hoạt, kịp thời điều
chỉnh, bổ sung vào chương trình công tác những công việc hệ trọng, phức
tạp, mới phát sinh trên các lĩnh vực để kịp thời lãnh đạo, chỉ đạo có
hiệu quả toàn diện mọi hoạt động trong đời sống xã hội. Cần tiếp tục
phát huy điểm mới trong nhiệm kỳ XIII, đó là: Bộ Chính trị, Ban Bí thư
đã chỉ đạo tổ chức nhiều hội nghị cán bộ toàn quốc (trực tiếp, trực
tuyến) để triển khai, quán triệt nhanh, đồng bộ Nghị quyết Đại hội XIII
của Đảng, các nghị quyết của Trung ương và Bộ Chính trị toàn diện ở tất
cả các ngành, các lĩnh vực, các địa bàn, theo cả chiều dọc và chiều
ngang; thống nhất từ Trung ương đến địa phương và giữa các địa phương
trong các vùng, miền. Định kỳ hằng tháng hoặc khi cần thiết, các đồng
chí lãnh đạo chủ chốt đều họp để nắm bắt toàn diện, cụ thể, thực chất
tình hình; trao đổi, bàn bạc, thống nhất quan điểm, chủ trương, định
hướng chỉ đạo những vấn đề lớn, hệ trọng, cấp bách của Đảng, của Đất
nước; đôn đốc, kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc, nhằm đẩy
nhanh tiến độ, hiệu quả công việc đã đề ra. Sau mỗi cuộc họp đều ban
hành kết luận chỉ đạo, phân công rõ trách nhiệm thực hiện đối với từng
vấn đề; góp phần quan trọng để lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành nhất quán,
thống nhất, kịp thời, chặt chẽ, đồng bộ, thông suốt, đặc biệt là trong
bối cảnh phải phòng, chống dịch bệnh COVID-19 và xử lý các tình huống
phức tạp vừa qua; khắc phục những sự chồng lấn, trùng lắp trong lãnh
đạo, chỉ đạo, điều hành; tạo sự đoàn kết, thống nhất ý chí và hành động
trong các đồng chí lãnh đạo chủ chốt; tạo sự lan tỏa đến Bộ Chính trị,
Ban Bí thư, Ban Chấp hành Trung ương Đảng và cả hệ thống chính trị.
Ba là, Tập trung ưu tiên ban hành đồng bộ và có chất lượng hệ thống
pháp luật, các quy định, quy chế, quy trình công tác để thực hiện nghiêm
túc, thống nhất trong toàn Đảng và cả hệ thống chính trị; đổi mới, nâng
cao chất lượng công tác triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII
của Đảng; có sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng, sự vào cuộc với quyết tâm
cao, nỗ lực lớn của cả hệ thống chính trị, sự đoàn kết nhất trí của
toàn Đảng, toàn dân, toàn quân theo đúng tinh thần "Tiền hô hậu ủng",
"Nhất hô bá ứng", "Trên dưới đồng lòng", "Dọc ngang thông suốt".
Bốn là, Tập thể Bộ Chính trị, Ban Bí thư và từng đồng chí Ủy viên Bộ
Chính trị, Ban Bí thư phải chấp hành nghiêm túc các quy chế, chế độ công
tác; hoạt động trên cơ sở Quy chế làm việc, Chương trình công tác toàn
khóa và hằng năm. Chuẩn bị kỹ nội dung, chương trình các cuộc họp; sắp
xếp nội dung một cách khoa học, bài bản; thời gian tương đối hợp lý; mỗi
phiên họp giải quyết được nhiều vấn đề; phát huy trí tuệ tập thể, đề
cao trách nhiệm cá nhân, thảo luận dân chủ, cẩn trọng, kỹ lưỡng; văn bản
hóa nhanh, kịp thời các kết luận của phiên họp.
Việc phân công, phân cấp trong giải quyết công việc giữa Bộ Chính trị
và Ban Bí thư, giữa tập thể Bộ Chính trị, Ban Bí thư và cá nhân các
đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư phụ trách từng lĩnh vực và
quan hệ lãnh đạo giữa Bộ Chính trị, Ban Bí thư với các Đảng đoàn, Ban
cán sự đảng, cấp ủy trực thuộc Trung ương cũng phải rõ ràng, cụ thể. Bộ
Chính trị, Ban Bí thư giải quyết công việc theo đúng thẩm quyền; báo cáo
kịp thời, đầy đủ với Ban Chấp hành Trung ương Đảng những vấn đề quan
trọng trước khi quyết định và những công việc Bộ Chính trị đã giải quyết
giữa hai kỳ hội nghị Trung ương.
Năm là, Từng đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư cần phát huy
cao độ tinh thần nêu gương, thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện, nâng cao
đạo đức cách mạng; nghiêm túc tự soi, tự sửa, tự phê bình và phê bình;
giữ vững kỷ luật, kỷ cương, tự giác nhận trách nhiệm chính trị lĩnh vực
mình phụ trách; kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân và các biểu
hiện tiêu cực khác; giữ gìn sự đoàn kết nội bộ; tư tưởng, chính trị
vững vàng, quan điểm đúng đắn; gương mẫu về đạo đức, lối sống trong công
tác, trong cuộc sống của bản thân, gia đình và người thân. Hết sức
tránh tình trạng "Chân mình còn lấm bê bê; Lại cầm bó đuốc đi rê chân
người!".
Trên cơ sở đó, tập trung ưu tiên triển khai thực hiện thật tốt những nhiệm vụ trọng tâm sau đây:
Thứ nhất, về phát triển kinh tế: Cần tiếp tục quán triệt thật sâu
sắc, tổ chức thực hiện thật nghiêm, thật tốt các chủ trương, đường lối
của Đảng và luật pháp, chính sách của Nhà nước về phát triển nhanh và
bền vững. Chú trọng củng cố, tăng cường nền tảng kinh tế vĩ mô, kiểm
soát lạm phát, nâng cao năng lực nội tại và tính tự chủ của nền kinh tế
trên cơ sở lành mạnh hóa, giữ vững sự phát triển ổn định, an toàn của hệ
thống các tổ chức tín dụng, thị trường tiền tệ, thị trường bất động
sản, thị trường chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp. Tập trung ưu tiên
cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh; giải quyết có hiệu quả những khó
khăn, hạn chế, yếu kém, cả trước mắt lẫn lâu dài của nền kinh tế để giữ
vững đà phục hồi, tăng trưởng nhanh và bền vững, thực chất hơn; tạo
chuyển biến mạnh hơn trong việc thực hiện các đột phá chiến lược, cơ cấu
lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng
suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Đẩy mạnh
chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh tế số, xã hội số, kinh tế xanh,
kinh tế tuần hoàn,... gắn với tăng cường quản lý tài nguyên, bảo vệ môi
trường.
Thứ hai, về phát triển văn hóa, xã hội: Cần quan tâm hơn nữa đến
nhiệm vụ phát triển văn hóa, xã hội, hài hòa và ngang tầm với phát triển
kinh tế; bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội; không ngừng nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần của Nhân dân. Thực hiện có hiệu quả chính
sách hỗ trợ người dân, người lao động mất việc làm và doanh nghiệp gặp
khó khăn. Chăm lo đời sống người có công với cách mạng, người có hoàn
cảnh khó khăn; xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh, gắn với bảo tồn,
phát huy các giá trị, bản sắc văn hoá nông thôn, đô thị, giải quyết
việc làm, giảm nghèo bền vững; ưu tiên bố trí nguồn lực thực hiện các
chương trình, đề án, chính sách đối với đồng bào dân tộc thiểu số và
miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo. Tiếp tục làm tốt hơn
nữa công tác phòng, chống dịch bệnh; nâng cao chất lượng khám, chữa
bệnh, chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ cho Nhân dân; bảo đảm vệ sinh, an toàn
thực phẩm. Nâng cao hiệu quả của các thiết chế văn hóa, nhất là ở các
khu công nghiệp, khu đô thị mới; bảo tồn và phát huy các giá trị di sản,
văn hoá tốt đẹp. Xây dựng nếp sống văn hóa lành mạnh; ngăn chặn sự suy
thoái về đạo đức, lối sống và quan tâm hơn nữa đến việc phòng, chống bạo
lực gia đình, xâm hại trẻ em và tệ nạn xã hội.
Thứ ba, về quốc phòng, an ninh, đối ngoại: Cần tiếp tục củng cố, tăng
cường tiềm lực quốc phòng, an ninh; giữ vững ổn định chính trị, trật
tự, an toàn xã hội; nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại và hội nhập
quốc tế. Chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm
mưu chống phá của các thế lực thù địch, phản động; tuyệt đối không để bị
động, bất ngờ trong mọi tình huống. Thực hiện đồng bộ các giải pháp bảo
đảm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội; tích cực đấu tranh
phòng, chống các loại tội phạm và tệ nạn xã hội; thực hiện các giải pháp
bảo đảm an ninh mạng, an toàn giao thông, phòng, chống cháy, nổ.
Tổ chức thật tốt các hoạt động đối ngoại, nhất là đối ngoại cấp cao;
chủ động, tích cực, làm sâu sắc, thực chất hơn nữa quan hệ với các đối
tác; đẩy mạnh đối ngoại đa phương; giữ vững đường lối đối ngoại độc lập,
tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hoá, đa dạng hóa các
quan hệ quốc tế; chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, lấy lợi
ích quốc gia, dân tộc là trên hết, trước hết. Triển khai thực hiện có
hiệu quả các hiệp định thương mại đã ký kết, tranh thủ tối đa lợi ích mà
các hiệp định này có thể đem lại.
Thứ tư, về xây dựng Đảng và hệ thống chính trị: Cần tiếp tục đẩy mạnh
và làm tốt hơn nữa công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính
trị thực sự trong sạch, vững mạnh, đặc biệt là hệ thống các cơ quan lập
pháp, hành pháp và tư pháp từ Trung ương đến địa phương. Xây dựng Chính
phủ, chính quyền các địa phương thật sự trong sạch, liêm chính, vững
mạnh, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Cụ thể là, phải có chương trình, kế
hoạch triển khai thực hiện một cách nghiêm túc, ráo riết, có kết quả cụ
thể các nghị quyết, kết luận của Trung ương về vấn đề này, nhất là Nghị
quyết Trung ương 4 khóa XII và Kết luận của Hội nghị Trung ương 4 khóa
XIII về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên
quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm những cán bộ, đảng viên suy thoái
về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, có biểu hiện "tự diễn biến",
"tự chuyển hóa", gắn với việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh.
Làm tốt hơn nữa công tác cán bộ để lựa chọn, bố trí đúng những người
thật sự có đức, có tài, liêm chính, tâm huyết; thật sự vì nước, vì dân
vào các vị trí lãnh đạo của bộ máy nhà nước. Kiên quyết đấu tranh loại
bỏ những người sa vào tham nhũng, hư hỏng; chống mọi biểu hiện chạy
chức, chạy quyền, cục bộ, ưu ái tuyển dụng người nhà, người thân không
đủ tiêu chuẩn. Phát huy dân chủ, nâng cao ý thức trách nhiệm, nêu gương;
tinh thần phục vụ nhân dân của cán bộ, công chức, viên chức. Có cơ chế,
chính sách khuyến khích, bảo vệ những người năng động, sáng tạo, dám
nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Siết chặt kỷ luật, kỷ cương; thường
xuyên kiểm tra, đôn đốc, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong việc thực thi
công vụ; nâng cao đạo đức, văn hóa, tính chuyên nghiệp của cán bộ, công
chức, viên chức. Kiên trì, kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng,
tiêu cực gắn với việc đẩy mạnh xây dựng, hoàn thiện luật pháp, cơ chế,
chính sách để "không thể, không dám, không muốn tham nhũng".
Thứ năm, về chuẩn bị cho đại hội đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng: Các Tiểu ban chuẩn bị cho Đại
hội XIV của Đảng cần khẩn trương, nghiêm túc chủ trì, phối hợp với các
ban, bộ, ngành Trung ương và các cấp uỷ, chính quyền các địa phương tiến
hành tổng kết những vấn đề lý luận và thực tiễn qua 40 năm đổi mới, tập
trung vào 10 năm gần đây; xây dựng có chất lượng dự thảo các văn kiện
trình đại hội đảng bộ các cấp và tham gia góp ý hoàn thiện dự thảo các
văn kiện trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng; làm tốt
hơn nữa công tác xây dựng quy hoạch và công tác cán bộ lãnh đạo các cấp,
đặc biệt là công tác quy hoạch và công tác cán bộ Ban Chấp hành Trung
ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư khóa XIV, nhiệm kỳ 2026 - 2031;
chuẩn bị và tiến hành thật tốt đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2025 -
2030, tiến tới Đại hội XIV của Đảng.
Tự hào, tin tưởng vào Đảng quang vinh qua 30 năm kể từ ngày thành
lập, nhà thơ Tố Hữu, nhà thơ cách mạng nổi tiếng của chúng ta đã có tác
phẩm bất hủ "30 năm đời ta có Đảng", trong đó có đoạn viết:
"Đảng ta đó, trăm tay nghìn mắt
Đảng ta đây, xương sắt da đồng
Đảng ta, muôn vạn công nông
Đảng ta, chung một tấm lòng niềm tin"
Niềm tự hào, niềm tin đó của Nhân dân ta đối với Đảng từng bước được
vun đắp, nâng cao, ngày càng bền chặt hơn qua suốt chặng đường cách mạng
vẻ vang của Đảng từ năm 1930 đến nay với những kết quả, thành tựu mà
toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng đã
nỗ lực phấn đấu đạt được trong đấu tranh cách mạng giành chính quyền;
kháng chiến kiến quốc; xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc; đấu tranh
giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước; khắc phục hậu quả chiến tranh,
bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, từng bước đi lên chủ nghĩa xã
hội; và trong tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng đất nước ta ngày
càng đàng hoàng hơn, to đẹp hơn; mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động,
tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng; góp phần làm cho đất nước
ta có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay.
Tiếp tục trên chặng đường vinh quang dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa vô cùng yêu dấu của
chúng ta ngày càng đàng hoàng hơn, to đẹp hơn, Đảng ta, Đất nước ta và
Dân tộc ta sẽ tiếp tục hướng tới năm 2030, kỷ niệm 100 năm Ngày thành
lập Đảng, nước ta trở thành nước có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung
bình cao; và đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: phấn đấu
đưa nước ta trở thành nước phát triển, thu nhập cao; xây dựng đất nước
Việt Nam ta ngày càng "cường thịnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc",
vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Tự hào về Đảng quang vinh, Bác Hồ vĩ đại và Dân tộc Việt Nam anh
hùng; tin tưởng vào sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng cách mạng chân chính
và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam văn hiến và anh hùng,
toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta quyết tâm xây dựng một nước Việt Nam
ngày càng giàu mạnh, văn minh, văn hiến và anh hùng theo định hướng xã
hội chủ nghĩa"./.
TTXVN