Thứ Năm, 5/12/2024
Khoa học
Thứ Hai, 5/9/2022 9:9'(GMT+7)

Sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức ở nước ta

Hội nghị toàn quốc “Đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ Việt Nam triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng’’

Hội nghị toàn quốc “Đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ Việt Nam triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng’’

Lãnh đạo công tác xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức là công việc nhằm tuyên truyền, giải thích, động viên trí thức tự nguyện tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Theo đó, Đảng lãnh đạo công tác vận động trí thức là toàn bộ hoạt động của Đảng từ việc đề ra đường lối, chủ trương, chính sách, tổ chức thực hiện; công tác tổ chức và cán bộ cho đến kiểm tra việc thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách vận động trí thức, đoàn kết tập hợp, xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức trong xây dựng và bảo vệ bảo vệ Tổ quốc.

“Trí thức là những người lao động trí óc, có trình độ học vấn cao về lĩnh vực chuyên môn nhất định, có năng lực tư duy độc lập, sáng tạo, truyền bá và làm giầu tri thức, tạo ra những sản phẩm tinh thần và vật chất có giá trị đối với xã hội. Trí thức Việt Nam xuất thân từ nhiều giai cấp, tầng lớp xã hội, nhất là từ công nhân và nông dân; phần lớn trưởng thành trong xã hội mới, được hình thành từ nhiều nguồn đào tạo ở trong và ngoài nước, với nhiều thế hệ nối tiếp nhau, trong đó có bộ phận trí thức người Việt Nam ở nước ngoài”.

(Nghị quyết 27-NQ/TW, ngày 6/8/2008

của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X)

SỰ PHÁT TRIỂN NHẬN THỨC CỦA ĐẢNG VỀ XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC

Khẳng định vai trò quan trọng của tầng lớp trí thức trong xã hội, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã nhấn mạnh: giai cấp công nhân chỉ có thể hoàn thành sứ mạng lịch sử toàn thế giới của mình khi liên minh với các giai cấp và tầng lớp lao động khác, mà trước hết là với giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức và lãnh đạo họ tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn nhất quán quan điểm lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức làm nòng cốt của cách mạng. Điều này được thể hiện trong Chính cương, Điều lệ Đảng, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) ở nước ta và nhiều văn kiện nghị quyết khác của Đảng ta.

Trí thức Việt Nam có vị trí, vai trò quan trọng trong cách mạng, nên khi thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, trước yêu cầu phải có một đường lối chính trị rõ ràng, phải phân định rõ chiến tuyến giữa cách mạng và phản cách mạng, Hồ Chí Minh đã xếp trí thức vào hàng ngũ lực lượng cách mạng của dân tộc, là một trong những đồng minh gần gũi của giai cấp công nhân và nông dân.

Việc Hồ Chí Minh xác định từ sớm vai trò, vị trí của trí thức đã lôi cuốn tầng lớp này về phía cách mạng từ những ngày đầu tiên, đã tăng cường sức mạnh cho cuộc cách mạng. Đây là vấn đề mang tính chất chiến lược. Hồ Chí Minh xác định: Lao động trí óc có nhiệm vụ rất quan trọng trong sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc, trong công cuộc hoàn thành dân chủ mới để tiến lên CNXH. Trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, trí thức phải tuyên truyền, giáo dục quần chúng những tư tưởng cách mạng, là ngòi nổ cho các phong trào cách mạng, đấu tranh chống lại những luận điệu phản động, mị dân của kẻ thù.

Trên thực tế, ngay sau khi ra đời, trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên (1930), Đảng Cộng sản Việt Nam đã coi trọng lãnh đạo đội ngũ trí thức. Tuy nhiên, phải sau đó 10 năm, chủ trương, chính sách đối với tầng lớp trí thức mới thực sự hình thành và phát triển. Với sự ra đời của Mặt trận Việt Minh (1941), tiếp sau đó là bản Đề cương văn hóa Việt Nam (1943) và sự thành lập Đảng Dân chủ Việt Nam (1944), Đảng từng bước hoàn chỉnh công tác huy động sức mạnh của tầng lớp trí thức vào công cuộc giải phóng dân tộc. Thành công của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 có phần đóng góp không nhỏ từ chủ trương trí thức vận của Đảng. Trong suốt 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), chủ trương trí thức vận vẫn được Đảng quán triệt và thực hiện nhất quán. Cương lĩnh của Đảng Lao động Việt Nam (1951) xác định: “Đảng Lao động Việt Nam sẽ bao gồm những công nhân, nông dân và lao động trí óc yêu nước nhất, hăng hái nhất, cách mạng nhất”.

Trong giai đoạn tiếp theo, một trong những văn kiện thể hiện rõ nhất quan điểm, chủ trương xây dựng đội ngũ trí thức ở miền Bắc; đánh dấu sự hình thành tư duy của Đảng về xây dựng đội ngũ trí thức mới XHCN trên miền Bắc giai đoạn này là Chính sách của Đảng Lao động Việt Nam với trí thức được công bố tại Hội nghị Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (8/1957): Trí thức là vốn quý của dân tộc. Không có trí thức hợp tác với công nông thì cách mạng không thể thành công và sự nghiệp xây dựng một nước Việt Nam mới không thể hoàn thành được”. Đảng đã chỉ ra những đặc điểm của trí thức Việt Nam, nhấn mạnh vai trò của trí thức nêu một số chủ trương: Cải tạo trí thức cũ, đào tạo trí thức mới, không ngừng nâng cao trình độ và mở rộng hàng ngũ của giới trí thức; đoàn kết rộng rãi giới trí thức, huy động mọi lực lượng trí thức làm tròn những nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới; sử dụng trí thức đúng tài năng, sắp xếp công tác cho hợp lý theo nguyên tắc có tài có đức, có chức có quyền; bảo đảm cho trí thức những phương tiện làm việc cần thiết, đãi ngộ trí thức một cách xứng đáng và hợp với khả năng nước nhà. 

Tiếp đó, Văn kiện Đại hội III của Đảng (9/1960), Thông tri 162-TT/TW (5/1965), Chỉ thị 88/Ttg-VG (8/1965), Nghị quyết 142/NQ-TW (6/1966), Chỉ thị 190-CT/TW (7/1971), Nghị quyết 225-NQ/TW (2/1973) là những văn kiện quan trọng làm rõ phương hướng, giải pháp đào tạo, bồi dưỡng, quản lý, sử dụng và đãi ngộ đội ngũ trí thức thời kỳ 1954-1975. Văn kiện Đại hội III của Đảng (9/1960) còn chỉ rõ việc đào tạo, bồi dưỡng trí thức phải chú trọng cả ba mặt: chuyên môn, chính trị, văn hóa để họ trở thành người cán bộ “vững vàng về chính trị, giỏi về chuyên môn, có sức khỏe”, “trung thành với Tổ quốc, với CNXH và chủ nghĩa cộng sản, sẵn sàng mang hết nhiệt tình của tuổi trẻ tham gia xây dựng xã hội mới”. Phương hướng đào tạo đội ngũ trí thức được xác định là “bao gồm hàng vạn cán bộ chuyên môn về các mặt khoa học tự nhiên, kỹ thuật và khoa học xã hội”.

Trong bài nói chuyện tại Hội nghị cán bộ cao cấp nghiên cứu Nghị quyết Trung ương 12 khóa III, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến việc phải tích cực đào tạo, sử dụng cán bộ chuyên môn trong tất cả các ngành, các cấp. Nghị quyết số 142/NQ-TW của Bộ chính trị (28/6/1966) chủ trương xây dựng một đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật (KHKT) và cán bộ quản lý kinh tế đông đảo, vững mạnh, ngày càng hoàn chỉnh về trình độ và ngành nghề; có phẩm chất chính trị tốt, tuyệt đối trung thành với Đảng, với giai cấp công nhân, với dân tộc, liên hệ chặt chẽ với công nông; có trình độ KHKT và nghiệp vụ giỏi, nắm vững được những quy luật của tự nhiên và quy luật xã hội; có năng lực tổ chức và động viên quần chúng; đủ sức giải quyết những vấn đề KHKT và quản lý kinh tế do thực tiễn nước ta đề ra; có khả năng tiến kịp trình độ KHKT tiên tiến trên thế giới. Nghị quyết 157-NQ/TW (22/2/1967) đã khẳng định, phát triển KHKT là điều kiện không thể thiếu được để xây dựng thành công CNXH; sự nghiệp xây dựng CNXH càng phát triển thì vai trò của KHKT càng quan trọng. Chỉ thị 169-CT/TW của Ban Bí thư (14/2/1969) về công tác giáo dục trong 3 năm 1968-1970, nêu rõ yêu cầu đào tạo lực lượng cán bộ và lao động có kỷ luật, đồng thời tích cực chuẩn bị các điều kiện để đưa sự nghiệp giáo dục trong cả nước tiến lên mạnh mẽ và có chất lượng tốt. Nghị quyết số 225-NQ/TW của Bộ chính trị (20/2/1973) về công tác cán bộ trong giai đoạn mới, xác định giáo dục bồi dưỡng cán bộ phải nhằm nâng cao phẩm chất cách mạng và năng lực công tác theo tiêu chuẩn cán bộ. 

Thực tiễn đã chứng minh, trong mọi lĩnh vực, mọi thời kỳ cách mạng đều rất cần đến học vấn, tài năng và tâm huyết, sức lực của giới trí thức; đội ngũ trí thức đồng hành cùng dân tộc tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và tiến lên cách mạng XHCN. Trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế tri thức, vấn đề xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức không chỉ có ý nghĩa to lớn trong việc bảo đảm nguồn nhân lực chất lượng cao, mà còn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong toàn bộ chiến lược xây dựng và phát triển đất nước. Quán triệt sâu sắc yêu cầu khách quan đó, Đảng ta đã có nghị quyết chuyên đề về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước (Nghị quyết Trung ương 7 khóa X, năm 2008), trong đó nhấn mạnh: “xây dựng đội ngũ trí thức vững mạnh là trực tiếp nâng tầm trí tuệ của dân tộc, sức mạnh của đất nước, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng và chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị. Đầu tư xây dựng đội ngũ trí thức là đầu tư cho phát triển bền vững”.

Báo cáo Chính trị tại Đại hội XII của Đảng chỉ rõ phương hướng: Xây dựng đội ngũ trí thức lớn mạnh, có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước. Tôn trọng và phát huy tự do tư tưởng trong hoạt động nghiên cứu, sáng tạo. Trọng dụng trí thức trên cơ sở đánh giá đúng phẩm chất, năng lực và kết quả cống hiến. Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, đãi ngộ xứng đáng những cống hiến của trí thức. Có chính sách đặc biệt đối với nhân tài của đất nước. Coi trọng vai trò tư vấn, phản biện, giám định xã hội của các cơ quan nghiên cứu khoa học trong việc hoạch định đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước và các dự án phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Gắn bó mật thiết giữa Đảng và Nhà nước với trí thức, giữa trí thức với Đảng và Nhà nước.

Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Xây dựng đội ngũ trí thức ngày càng lớn mạnh, có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong tình hình mới… Trong dụng, đãi ngộ thỏa đáng đối với nhân tài, các nhà khoa học và công nghệ Việt Nam có trình độ chuyên môn cao ở trong nước và nước ngoài, nhất là các nhà khoa học đầu ngành, nhà khoa học có khả năng chủ trì các nhiệm vụ khoa học và công nghệ đặc biệt quan trọng”.

ĐẶC ĐIỂM SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG TRONG XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC

Phương thức Đảng lãnh đạo công tác xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức có thể khái quát bằng các đặc điểm sau:

Một là, lãnh đạo bằng Cương lĩnh, đường lối, nghị quyết và các định hướng chính sách lớn về trí thức. Thực chất Đảng lãnh đạo công tác trí thức tức là chỉ ra con đường đúng đắn cho đội ngũ trí thức đi, đồng thời định hướng chỉ đạo các tổ chức trong hệ thống chính trị tuyên truyền, vận động, thuyết phục, tập hợp, tổ chức trí thức đi theo con đường đó nhằm phục vụ tốt nhất cho sự nghiệp cách mạng. Đảng phải căn cứ vào tình hình thực tin, vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để xây dựng, ban hành, triển khai thực hiện chủ trương, đường lối, nghị quyết và các định hướng chính sách lớn về trí thức và công tác vận động trí thức.

Hai là, lãnh đạo thông qua các mặt hoạt động của Nhà nước. Đảng lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa cương lĩnh, đường lối, chính sách về công tác trí thức vào Hiến pháp, pháp luật; cụ thể hóa vào các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và tổ chức thực hiện có hiệu quả. Tổ chức đảng và đảng viên công tác trong cơ quan nhà nước, đoàn thể phải nghiêm chỉnh chấp hành mọi nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước về công tác trí thức.

Ba là, lãnh đạo thông qua công tác tư tưởng của Đảng. Đây là phương thức lãnh đạo có tính nguyên tắc của Đảng. Đòi hỏi toàn Đảng cũng như các cấp bộ đảng, sau khi có chủ trương, chính sách đúng đắn, phải đi sâu vào các bộ phận, các tổ chức của trí thức để tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục, giác ngộ tư tưởng cho trí thức, làm cho trí thức hướng theo một cách tự nguyện, tự giác. Phải luôn nhận thức rõ rằng, tiến hành công tác tư tưởng trong trí thức là làm công tác lãnh đạo; muốn lãnh đạo hiệu quả phải tích cực làm công tác tư tưởng; trách nhiệm làm công tác tư tưởng trước hết thuộc về người lãnh đạo, người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng.

Bốn là, lãnh đạo bằng công tác tổ chức và cán bộ, công tác kiểm tra, giám sát của Đảng. Đảng lãnh đạo công tác trí thức bằng tổ chức và công tác cán bộ là một nội dung quan trọng trong phương thức lãnh đạo của Đảng, vì các cấp ủy đảng định rõ tiêu chuẩn, điều kiện cần có của người cán bộ làm công tác trí thức để đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch và giới thiệu cho các cơ quan này bầu chọn công khai, dân chủ; các cấp ủy đảng không nên hạn chế việc tự ứng cử từ phía các tổ chức của trí thức. Cần tránh việc áp đặt cán bộ làm việc trong các cơ quan của trí thức, nhất là trong bầu cử cán bộ lãnh đạo. Các cấp ủy đảng lãnh đạo các cơ quan của trí thức làm tốt công tác hiệp thương để chọn ra những đại biểu ưu tú đưa vào danh sách bầu cử hội đồng nhân dân các cấp và đại biểu Quốc hội. Vì vậy, cần nghiên cứu cơ chế để trí thức thực hiện quyền làm chủ Nhà nước của mình thông qua các cơ quan của trí thức, không chỉ bằng tư vấn, phản biện, giám định xã hội, mà còn thông qua việc đưa những trí thức có tài năng, năng lực quản lý tham gia bộ máy của Đảng và Nhà nước.

Đảng lãnh đạo bằng công tác kiểm tra, giám sát các tổ chức đảng, hoạt động của bộ máy nhà nước và các đoàn thể trong việc thực hiện các chủ trương, đường lối về trí thức và công tác vận động trí thức. Đồng thời lãnh đạo, tổ chức, động viên trí thức giám sát, phản biện hoạt động của cơ quan, công chức nhà nước về xây dựng, phát huy đội ngũ trí thức nói riêng. Mặt khác, Đảng lãnh đạo các tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong các tập thể khoa học, các tổ chức và các hội nghề nghiệp của trí thức trong việc thực hiện điều lệ, nghị quyết và chương trình, kế hoạch công tác của tổ chức mình.

Năm là, lãnh đạo thông qua vai trò tiền phong, gương mẫu của các cán bộ, đảng viên là trí thức và các tổ chức đảng hoạt động trong các tập thể lao động khoa học của trí thức; phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc (MTTQ), các đoàn thể chính trị - xã hội và các hội trong tập hợp, đoàn kết trí thức cống hiến cho đất nước. Uy tín và ảnh hưởng trực tiếp của Đảng đối với đội ngũ trí thức trước hết là thông qua những đảng viên, những cán bộ của Đảng hoạt động trong đội ngũ trí thức. Thông thường, những cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt trong tổ chức của những người trí thức đều là đảng viên của Đảng. Đảng viên có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt, gương mẫu thực hiện nhiệm vụ đảng viên, thực hiện chức trách và nhiệm vụ trong cơ quan, tổ chức của trí thức, là hoạt động lãnh đạo có hiệu quả đối với vận động trí thức.

MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội là tổ chức tập hợp lực lượng đông đảo trí thức các ngành, lĩnh vực, các lứa tuổi; bao gồm cả trí thức trong nước và trí thức Việt Nam ở nước ngoài. Thông qua MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội, dựa vào MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội để tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến với trí thức. Thực tế cho thấy, đây là “kênh” truyền tải quan trọng và rất có hiệu quả.

Thủ tướng Phạm Minh Chính tham quan trưng bày các sản phẩm khoa học, kỹ thuật.

Thủ tướng Phạm Minh Chính tham quan trưng bày các sản phẩm khoa học, kỹ thuật.

NỘI DUNG, HÌNH THỨC CÔNG TÁC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC

Công tác lãnh đạo đội ngũ trí thức là trách nhiệm của Đảng, hệ thống chính trị và toàn xã hội, bao gồm hai nội dung cơ bản:

Một là, xây dựng đội ngũ trí thức đáp ứng được yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Xây dựng đội ngũ trí thức là một quá trình lâu dài, đòi hỏi sự tham gia, chung tay, góp sức của toàn Đảng, toàn dân và toàn xã hội. Để có được đội ngũ trí thức đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ của đất nước phải chú trọng chăm lo đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ trí thức từ đào tạo mới, đào tạo lại và bồi dưỡng thường xuyên kiến thức cho đội ngũ trí thức. Muốn làm tốt việc đào tạo đội ngũ trí thức cần phải xem giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, đặc biệt chú trọng giáo dục đại học và sau đại học.

Để xây dựng đội ngũ trí thức đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đảng, Nhà nước tiến hành cải cách giáo dục từ cơ cấu hệ thống đến chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học, nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo đại học; thực hiện các biện pháp gắn đào tạo với nhu cầu của người học và nhu cầu của xã hội. Song song với đảm chất lượng đào tạo đại trà, xây dựng cơ chế, chính sách thực hiện có hiệu quả đào tạo tài năng nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ trí thức và phát triển nhân tài cho đất nước. Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng trí thức trẻ, những người đã có cống hiến trong hoạt động thực tiễn, trí thức người dân tộc thiểu số và trí thức nữ. Thực hiện tốt kiểm định chất lượng đào tạo, tăng cường vai trò của các tổ chức kiểm định độc lập. Tăng cường hoạt động nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ. Gắn đào tạo đại học và sau đại học với nghiên cứu khoa học, với sản xuất kinh doanh. Xây dựng một số trường đại học ngang tầm các nước tiên tiến trong khu vực và thế giới. Tạo điều kiện để các trường đại học, viện nghiên cứu hàng đầu của các nước phát triển đầu tư mở cơ sở đào tạo, nghiên cứu, chuyển giao công nghệ tại Việt Nam. Cần chủ động đưa cán bộ, học sinh, sinh viên có đạo đức và triển vọng đi đào tạo ở nước ngoài, chú trọng các chuyên ngành mà đất nước có nhu cầu bức thiết; quan tâm bố trí đãi ngộ để thu hút trí thức được đào tạo về nước công tác, hạn chế tình trạng chảy máu chất xám.

Xây dựng đội ngũ trí thức là trách nhiệm của toàn xã hội, vì vậy phải thực hiện xã hội hóa giáo dục và đào tạo, huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn đầu tư để phát triển giáo dục và đào tạo; đa dạng hóa các loại hình đào tạo, bồi dưỡng ở trong và ngoài nước; xây dựng thành công xã hội học tập, tuyên truyền vận động, phát huy vai trò gia đình, dòng họ, các cơ quan đơn vị tích cực tham gia vào các hoạt động khuyến học khuyến tài; mỗi một cá nhân phải không ngừng học tập, học tập suốt đời.

Hai là, phát huy vai trò của đội ngũ trí thức trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Để phát huy vai trò của đội ngũ trí thức, cần phải tập hợp, đoàn kết, tập hợp đội ngũ trí thức trong các ngành, lĩnh vực, trong nước, ngoài nước, phải đưa họ vào tổ chức dù nhà nước hay ngoài nhà nước. Đồng thời phải tập trung xây dựng tổ chức, bộ máy và nâng cao chất lượng hoạt động các tổ chức của trí thức như các đơn vị nghiên cứu và giảng dạy ở các viện, trường đại học - cao đẳng; các hội trí thức, tổ chức khoa học – công nghệ của trí thức ngoài công lập.

Tích cực tuyên truyền, phổ biến cho trí thức về chủ trương đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; cổ vũ, động viên đội ngũ trí thức phát huy nhiệt tình cách mạng, sáng tạo trong nghiên cứu khoa học, lao động, tự giác chấp hành, thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thông qua công tác lý luận, tuyên truyền cổ động và công tác văn hóa - văn nghệ của Đảng, của các tổ chức trong hệ thống chính trị góp phần định hướng chính trị, giáo dục, nâng cao nhận thức của đội ngũ trí thức về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối cách mạng của Đảng; động viên trí thức tham gia các hoạt động nghiên cứu lý luận, nghiên cứu khoa học, trao đổi học thuật, tiến hành phản biện có chất lượng các yêu cầu khoa học và lý luận. Từ đặc trưng lao động sáng tạo của trí thức, phải tuyên truyền, thuyết phục, cổ vũ động viên đội ngũ trí thức phát huy tinh thần lao động sáng tạo trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; phát huy vai trò của đội ngũ trí thức, khơi dậy và làm cho tiềm năng sáng tạo của trí thức trở thành động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, góp phần thực hiện các mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Đảng, Nhà nước, các ngành các cấp tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động của trí thức. Thực hiện quy chế dân chủ trong hoạt động khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo, văn hóa - văn nghệ; bổ sung, hoàn thiện các cơ chế, chính sách, tạo điều kiện để trí thức phát triển, cống hiến. Mở rộng hợp tác và giao lưu quốc tế về khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo, văn hóa - văn nghệ. Chăm lo bảo đảm chính sách, chế độ đãi ngộ, lợi ích vật chất, tinh thần của đội ngũ trí thức. Để có chính sách đúng đắn đối với đội ngũ trí thức, Đảng và Nhà nước cần khuyến khích và tạo thu nhập chính đáng bằng chất xám; đặc biệt quan tâm đến lợi ích tinh thần, tôn vinh các nhà khoa học, các tổ chức, tập thể trí thức có đóng góp lớn thông qua việc trao tặng các giải thưởng, phong tặng các danh hiệu cao quý.

Ngoài những cách thức chung như đối với các tầng lớp xã hội khác, công tác vận động trí thức cần chú trọng đến những nét riêng của tầng lớp xã hội đặc biệt này, nhất là đặc điểm và vai trò của họ để có phương pháp, hình thức vận động phù hợp. Công tác vận động trí thức được thể hiện qua các hình thức:

1) Thông qua việc đề ra cương lĩnh, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Trước hết Đảng phải xác định mục tiêu, quan điểm, phương hướng làm kim chỉ nam cho mọi hành động của toàn hệ thống chính trị và toàn xã hội. Trên cơ sở đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước phải cụ thể hóa thành các văn bản pháp luật của Quốc hội, chính sách cụ thể của Chính phủ, của các bộ, ngành và chính quyền các cấp trong việc xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức.

2) Bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, đối thoại, gặp gỡ, giao lưu với trí thức. Đây là những hình thức quan trọng trong công tác tư tưởng. Thông qua các hình thức này, xây dựng và xác lập kênh thông tin đa chiều để kết nối giữa những người làm công tác vận động trí thức hiểu và thực hiện đúng những quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước.

3) Bằng công tác quản lý nhà nước, thông qua việc thực thi các chính sách, pháp luật của nhà nước. Mọi chủ trương và chính sách sẽ không đi vào cuộc sống nếu không được triển khai thực hiện đầy đủ kịp thời. Trên cơ sở các nghị quyết của Đảng, chính sách của Nhà nước, chính quyền các cấp cụ thể hóa hơn nữa thành các chiến lược, chương trình, kế hoạch, quyết định… về công tác vận động trí thức, tạo điều kiện thuận lợi cho trí thức cống hiến, đóng góp sức mình vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

4) Bằng công tác cán bộ, thông qua vai trò tiền phong gương mẫu trong tư tưởng, lời nói và hành động của đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng, những đảng viên trí thức để nêu gương, lôi cuốn, dẫn dắt, thuyết phục và vận động đội ngũ trí thức.

5) Bằng sự phối, kết hợp giữa các tổ chức đảng với chính quyền, MTTQ và các đoàn thể chính trị - xã hội, các tổ chức của trí thức, các tổ chức xã hội, gia đình, dòng họ để tạo ra sức mạnh tổng hợp nhằm xây dựng và đào tạo, phát huy vai trò lao động sáng tạo, tiềm năng trí tuệ của đội ngũ trí thức./.

PGS. TS. PHẠM VĂN LINH
Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương

 
Phản hồi

Các tin khác

Thư viện ảnh

Liên kết website

Mới nhất