Thứ Sáu, 17/5/2024

Triết lý phát triển Việt Nam tầm nhìn năm 2045 (Phần 2)

(Ảnh minh họa)

(Ảnh minh họa)

PHÁT TRIỂN TRIẾT LÝ ĐỔI MỚI VÀ PHÁT TRIỂN VÌ ĐỘC LẬP DÂN TỘC VÀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI TRONG TẦM NHÌN 2045

Thành tựu hơn 35 năm đổi mới xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, có thể nói, mang ý nghĩa quan trọng. Dư luận quốc tế ghi nhận: “Thắng lợi của... đổi mới ở Việt Nam có ý nghĩa quốc tế, có tầm quan trọng lịch sử ở mức độ góp phần quyết định tương lai của chủ nghĩa xã hội trên phạm vi thế giới..., mở ra triển vọng khắc phục các cuộc khủng hoảng, thúc đẩy sự hình thành một trật tự thế giới mới công bằng hơn”(1). “Những nhiệm vụ… đề ra là rất nặng nề, nhưng Việt Nam chắc chắn sẽ vượt qua được mọi khó khăn và sẽ chứng minh cho cả thế giới thấy rằng chủ nghĩa xã hội là một khả năng thực tế, rằng những nguyên tắc của chủ nghĩa Mác - Lênin nếu biết áp dụng phù hợp vào thực tế của mỗi dân tộc thì vẫn có giá trị, rằng tư tưởng Hồ Chí Minh, với tầm nhìn xa, trông rộng vẫn còn nguyên giá trị và việc tồn tại của một Đảng Cộng sản như một chính đảng lãnh đạo xã hội là phương thức duy nhất có khả năng duy trì những thành quả của cách mạng, duy trì nền độc lập, chủ quyền và tự do...”(2).

Thực tiễn đó và tầm nhìn tương lai tới năm 2045, đối với chúng ta, hiện nay nổi bật hai mệnh đề lớn: Một là, không thể khư khư bám lấy hiện tại và phóng đại nó để tự huyễn hoặc mình hoặc là rơi vào bi quan, yếm thế. Cả hai ngả đường này tất yếu rơi vào con đường duy nhất: Tự diệt vong. Hai là, phát triển và phát triển chính là con đường duy nhất để quốc gia trở nên hùng mạnh, là bảo bối để giữ vững nền độc lập, tự do và để mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân và sánh vai với các nước phát triển trên thế giới.

Không có con đường nào khác phù hợp và đúng đắn hơn! Vì thế:        

Trước hết, triết lý đổi mới phải là sự kế thừa lịch sử dân tộc, đồng thời cũng chính là sự giải phóng và tự giải phóng  khỏi những “vết mòn” lịch sử qua các cuộc canh tân, cải cách đất nước trước đây, nhưng với một nhãn quan mới, ở một tầm cao mới, với chất lượng mới, phù hợp với thời đại mới.

Nếu tự đặt mình vào những buổi đầu từ khi bắt tay vào công cuộc đổi mới “... Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã nỗ lực khắc phục khó khăn, kiên trì tìm tòi, khai phá con đường đổi mới chưa có một khuôn mẫu cho trước...” thì mới có thể thấy hết được ý nghĩa của vấn đề giải phóng và tự giải phóng vào thời điểm phức tạp, cam go có tính chất bước ngoặt trong sự nghiệp đổi mới xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. 

Nhìn lại lịch sử đất nước trong vòng năm thế kỷ trở lại đây thì đã có hàng loạt lý thuyết bàn định về sự cải cách, canh tân, khát vọng đưa dân tộc tiến lên. Đó là những cuộc cải cách của Hồ Quý Ly (thế kỷ XV), của Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch (thế kỷ XIX) và những dự án canh tân của Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh và các chí sĩ yêu nước (đầu thế kỷ XX)... Nhưng tất cả những lý thuyết, dự án về các cuộc cải cách, canh tân ấy đều thất bại vì chủ quan, khiếm khuyết do hoặc duy chỉ hướng nội hoặc duy chỉ hướng ngoại hoặc bị cản trở bởi sự hẹp hòi của nhãn quan phong kiến chật hẹp và khuôn khổ trói buộc của xã hội thuộc địa, nửa phong kiến; tức là thiếu những điều kiện bảo đảm cần và đủ về tiền đề vật chất và tinh thần cho lý thuyết cải cách, canh tân thành công đất nước.

Giải phóng chính là khởi đầu sự phát triển.

Vượt qua những khiếm khuyết đó, với trọng tâm là giữ vững tư duy độc lập và sáng tạo, kiên trì và vận dụng linh hoạt chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện cụ thể nước ta, rút kinh nghiệm mấy thập niên qua, lý thuyết đổi mới đã được xác lập. Đó là sự kết tinh những nhu cầu nội tại từ bên trong đất nước (đổi mới là vấn đề sống còn) đón gặp với xu thế phát triển (trên cơ sở không ngừng điều chỉnh) của thế giới, trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đổi mới là một cuộc giải phóng mình khỏi những tư duy cũ, những hành động vừa nóng vội, chủ quan, vừa bảo thủ, trì trệ; từng bước thoát khỏi xiềng xích của chủ nghĩa giáo điều đã kiềm tỏa mấy chục năm qua; là trở lại nhận thức của chủ nghĩa xã hội một cách đúng đắn như nó cần phải có và từ đó lựa chọn phương cách tiến hành phù hợp và hiệu quả. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Người châu Á - tuy bị người phương Tây coi là lạc hậu - vẫn hiểu rõ hơn hết sự cần thiết phải cải cách toàn bộ xã hội hiện tại”(3).

Mặt khác, đổi mới chính là sự giải thoát khỏi những khuynh hướng giáo điều, bảo thủ, thực dụng và cơ hội đủ loại. Đảng ta khẳng định: đổi mới là vấn đề sống còn của đất nước, nhưng đồng thời thực tiễn lại cho thấy, nếu đổi mới chệch con đường xã hội chủ nghĩa thì vận mệnh của đất nước có khi không cứu vãn được. Vì vậy, đổi mới tất yếu phải theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tư duy độc lập và sáng tạo của chúng ta phải đặt trên nền móng của sự nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, xuất phát từ thực tiễn cách mạng nước ta, trông ra thế giới và tiếp thu có chọn lọc tinh hoa của nhân loại. Điều cần chú ý là, bám sát được thực tiễn của đất nước và của thời đại trên cơ sở lập trường chính trị kiên định, không bảo thủ dừng lại và không dao động, ngả nghiêng trước thử thách mới.

Rõ ràng, triết lý đổi mới phải hàm chứa những vấn đề đó trên cơ sở giữ vững các nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc hoạch định chủ trương, đường lối, chính sách phù hợp, góp phần nhận thức đúng đắn và sâu sắc về chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đó là cuộc giải phóng có ý nghĩa cách mạng về mặt ý thức xã hội thông qua cuộc đổi mới về tư duy và cuộc giải phóng về phương diện lực lượng vật chất xã hội, mà trước hết là lực lượng sản xuất. Diễn đạt một cách khái quát rằng: “Đổi mới là thử nghiệm tìm ra mô hình phát triển phù hợp với tính cách riêng của Việt Nam, tức là sự tìm ra cho mình con đường tất yếu”(4).

Càng kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, càng xuất phát từ chính mình và thời đại, càng độc lập và sáng tạo, chúng ta càng nhiều cơ hội giải phóng và khả năng tìm thấy con đường và phương pháp giải quyết thành công những vấn đề khó khăn, phức tạp.

Đó là linh hồnphương châm của cuộc giải phóng tư duy và hành động của chúng ta.  

Thứ hai, việc nhận thức mục tiêu, con đường đưa đất nước tiến lên và việc xác định đúng mô hình, con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một vấn đề rất quan trọng và cấp bách, là trung tâm của triết lý đổi mới.

Trước sự đổ vỡ một mảng lớn của hệ thống xã hội chủ nghĩa trên thế giới và trước cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội trong nước, chúng ta tiếp tục khẳng định mục tiêu và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, đó là sự lựa chọn duy nhất đúng của cách mạng nước ta. Vấn đề này đã được nêu trong Chánh cương vắn tắt ngay từ năm 1930. Lý thuyết đổi mới thêm một lần nữa phân tích rõ tính tất yếu của sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. 

Những quan niệm đúng đắn và phù hợp về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, trên thực tế đã chứng tỏ sức sống của nó, tiếp tục đưa công cuộc đổi mới tiến lên. Đảng ta xác định mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng gồm sáu đặc trưng, rồi tám đặc trưng và con đường để thực hiện chính là bảy phương hướng cơ bản, rồi xử lý tám mối quan hệ lớn (2011) và 10 mối quan hệ chiến lược (2016)... Đặc biệt, ở đây cần phải nhấn mạnh rằng, bên cạnh việc tuân theo những quy luật phổ biến của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, chúng ta khéo áp dụng chúng, cân nhắc đặc điểm của dân tộc và đồng thời xác lập những hình thức, bước đi cụ thể, với ba khâu đột phá chiến lược bảo đảm thúc đẩy phát triển chung quanh bốn trụ cột đổi mới căn bản, để tiếp tục tiến lên chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh quốc tế diễn biến phức tạp. Đó là một trong những nét cơ bản nhất làm nên giá trị lịch sử của lý thuyết đổi mới. Đó chính là sự thể hiện phương pháp tư duy biện chứng mác-xít trong khi không được quên cái chung, phải nhận rõ cái đặc thù và đây chính là cơ sở của mọi sự sáng tạo của Đảng và nhân dân ta.

Thực tiễn hơn 35 năm đổi mới, bước đầu khẳng định sức mạnh hiện hữu và tiềm tàng của mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội, tính đúng đắn của con đường xã hội chủ nghĩa được lý thuyết đổi mới hoạch định. Dư luận quốc tế đánh giá: “Bất chấp những lời tuyên bố của chủ nghĩa đế quốc về “sự kết thúc của chủ nghĩa cộng sản” cách đây vài năm, ngày nay điều này càng rõ ràng là lý tưởng cộng sản vẫn rất sống động, vẫn có những nước như Việt Nam đang kiên trì đường hướng xã hội chủ nghĩa, có các lực lượng chính trị quan trọng trên tất cả các lục địa đang hướng tới việc xây dựng một xã hội mới không có người bóc lột người như là một mục đích thiết yếu của nền văn minh loài người”(5).

Với tất cả sự nỗ lực của Đảng và nhân dân ta, sự phát triển của chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một đóng góp vào việc thúc đẩy chủ nghĩa xã hội khoa học phát triển độc lập ở Việt Nam, đã góp phần bổ sung “cơ sở lịch sử” của chủ nghĩa Mác bằng cách đưa thêm vào đó những tư liệu mà Mác ở thời mình không thể có được”(6).

Đó chính là nét đặc sắc, là nguồn sức mạnh của triết lý đổi mới.

Thứ ba, xử lý mối quan hệ giữa ổn định chính trị với đổi mới xã hội chủ nghĩa trở thành nội dung cơ bản và điều kiện tiên quyết thành công của triết lý đổi mới và phát triển.

Nếu trong các mối quan hệ lớn đặt ra trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), vấn đề “đổi mới, ổn định và phát triển” lúc này hơn lúc nào hết, cần được hành động dứt khoát: Đổi mới để phát triển và phát triển là thước đo của đổi mới và ổn định. Mặt khác, lý thuyết đổi mới cũng nhấn mạnh: phải tập trung sức đổi mới kinh tế, đáp ứng những đòi hỏi cấp bách của nhân dân về đời sống, việc làm..., xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, coi đó là điều kiện quan trọng để tiến hành thuận lợi đổi mới trong lĩnh vực chính trị trong tổng thể 10 mối quan hệ chiến lược: Từ tầm nhìn chiến lược tới chỉ đạo vĩ mô một cách chỉnh thể công cuộc đổi mới.

Như vậy, vấn đề ổn định chính trị là nét cơ bản làm nên chỉnh thể của lý thuyết đổi mới. Vấn đề này không chỉ đơn giản được rút ra từ bài học thất bại của công cuộc cải tổ ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, từ kinh nghiệm cải cách của Trung Quốc, Cu Ba mà nhìn rộng hơn, đó là xu thế quốc tế hiện nay nói chung và đó là thực tiễn của công cuộc đổi mới ở nước ta nói riêng.

Sẽ là ảo tưởng trong việc tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội nếu vấn đề ổn định chính trị không được coi trọng như là một điều kiện tiên quyết. Nhưng việc ổn định chính trị và đổi mới hệ thống chính trị sẽ hết sức khó khăn nếu thiếu sự bảo đảm bởi những tiền đề vật chất, với tư cách là nền tảng. Thoát ly sự tăng trưởng của kinh tế, đặt ra yêu cầu quá cao đối với việc phát triển xã hội là ảo tưởng, nhưng cũng hết sức sai lầm nếu chỉ coi trọng việc đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế mà không quan tâm giải quyết những vấn đề xã hội, bởi đó chính là một trong những nguồn gốc dẫn tới mất ổn định chính trị.

Đổi mới, phát triển, ổn định có mối liên hệ nội tại không thể chia cắt. Phát triển là mục đích, mà mấu chốt để giải quyết mọi vấn đề của xã hội nước ta là phải dựa vào sự phát triển của chính mình, nắm bắt thời cơ, tự phát triển, trên cơ sở phát triển kinh tế thúc đẩy sự phát triển hài hòa, toàn diện của xã hội. Đó là yêu cầu khách quan để từng bước giải quyết mâu thuẫn chủ yếu của xã hội nước ta ở giai đoạn hiện nay. Đổi mới là động lực to lớn thúc đẩy kinh tế và xã hội phát triển, là nhằm giải phóng và phát triển sức sản xuất, là biện pháp cơ bản để giải quyết mâu thuẫn chủ yếu của xã hội, là sự tự hoàn thiện và phát triển của chủ nghĩa xã hội. Ổn định là tiền đề của phát triển và đổi mới; phát triển và đổi mới cần phải có môi trường chính trị và xã hội ổn định.

Triết lý đổi mới tiếp tục tiên liệu và xử lý hết sức khéo léo và sâu sắc mối liên hệ biện chứng của tổng thể 10 mối quan hệ chiến lược; đồng thời, dự liệu những chướng ngại cản trở việc giải quyết chúng từ nội dung tới những phương pháp nhằm đưa sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta tiếp tục tiến lên một cách đúng hướng và vững chắc.

Việt Nam phải tự mình trở nên hùng cường.

Đó là nét đặc sắc rất cơ bản của lý thuyết đổi mới.

Thứ tư, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là chủ nghĩa nhân đạo hoàn bị, chính là văn hóa phải trở thành trung tâm của triết lý đổi mới và phát triển.

Sự lựa chọn định hướng của tiến trình phát triển Việt Nam qua hơn 90 năm tất yếu là chủ nghĩa xã hội. Xét từ chiều sâu bản chất của nó, chủ nghĩa xã hội chính là một hình thái phát triển của văn hoá tương lai.

Việt Nam độc lập bước ra khỏi 1.000 năm Bắc thuộc, 100 năm nô lệ thực dân, bước qua 13 cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại suốt 20 thế kỷ qua, bằng và nhờ văn hóa.  Việt Nam đi từ chủ nghĩa yêu nước, là văn hóa, trên nền tảng chính trị chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nghĩa là văn hóa, tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội, dưới ngọn cờ của Đảng, để vươn tới Văn hóa theo nghĩa viết hoa.  Đó là lô-gic tiếp tục phát triển Việt Nam trong tầm nhìn tới năm 2030 - một trăm năm Đảng Cộng sản Việt Nam, bằng văn hóa! Đó là con đường xã hội chủ nghĩa hiện thực Việt Nam từ năm 1945 tới năm 2045 - một trăm năm Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Vì thế, dưới góc nhìn văn hóa, đó chính là sự gặp gỡ tự nhiên và thống nhất hết sức phù hợp của Việt Nam với cách nhìn nhận và đánh giá sự phát triển của các quốc gia tiến bộ trên con đường phát triển hướng tới con người, vì con người và cho con người trên cơ sở đời sống hiện thực của mỗi quốc gia, dân tộc bằng hệ giá trị tổng thể, trong đó văn hóa là một nhân tố căn bản, giữ vị thế và vai trò nền tảng.

Ngày nay, sự phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc không chỉ được đánh giá bằng tăng trưởng kinh tế, tổng sản phẩm trong nước mà còn bằng cách chỉ số: thu nhâp cao, giáo dục tốt, sức khoẻ và dinh dưỡng ở mức cao, nghèo khổ thấp, môi trường trong sạch, có cuộc sống văn hoá cao... Đi trên con đường xã hội chủ nghĩa, càng rõ ràng, đối với chúng ta, văn hoá là một thành tố không thể bị xem nhẹ, mà nó là một bộ phận trong chỉnh thể hữu cơ: chính trị - kinh tế - văn hoá - xã hội. Tổng hoà toàn bộ những thành tố đó mà hình thành hệ thống giá trị, thang bậc giá trị xã hội mới và tổ chức trong thực tiễn. Nghĩa là phải kiến lập và hiện thực hóa cho được theo một hệ giá trị mới, bao hàm những thuộc tính mang tính chuẩn mực không chỉ về kinh tế, chính trị, đối ngoại và còn phong phú, sâu sắc về xã hội, về đạo đức, về tinh thần, về phong tục, tập quán, tính cách dân tộc, v.v.. trong công cuộc phát triển và bảo vệ đất nước.

Theo đó, quan điểm về nhân tố con người, nguồn lực con người, hạnh phúc của con người trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước là nét nổi bật, là một nhân tố chiếm vị trí rất quan trọng trong cấu trúc của lý thuyết đổi mới. Chỉ có trong quá trình phấn đấu vì mục tiêu chủ nghĩa xã hội, con người mới được đặt ở vị trí trân trọng đến vậy. Chính điều này đã làm sâu sắc, phong phú và đậm đà chất nhân văn của lý thuyết đổi mới.

Con người là vốn quý nhất, mọi của cải vật chất, mọi giá trị tinh thần đều do con người sáng tạo ra. Con người vừa là chủ thể vừa là động lực vừa là đối tượng phục vụ của công cuộc đổi mới. Chăm lo cho hạnh phúc, cho con người là mục tiêu cao cả, là nhiệm vụ trung tâm, trọng đại của Đảng và Nhà nước ta, thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ ta. Đây là vấn đề hoàn toàn phù hợp với xu thế tiến bộ xã hội của thế giới trong thế kỷ XXI.

Phát triển nhân tố con người thực chất là khai thác mọi tiềm năng của con người, nó vừa là mục tiêu cuối cùng, vừa là động lực cơ bản để phát triển kinh tế và xã hội. Sự phát triển cá nhân của mỗi con người phải gắn chặt với sự phát triển của xã hội mới. Đến lượt mình, chế độ và xã hội cần tạo điều kiện và môi trường cho sự phát triển con người, trước hết là ưu tiên phát triển thể chất và tinh thần. Từng con người được tạo điều kiện phát triển tức là tiếp tục nhận thức chân giá trị của bản thân mình, tự giác thoát khỏi sự hạn chế và trói buộc vật chất tầm thường để vươn tới tương lai tươi sáng của đất nước. Chúng ta cần một xã hội Việt Nam như thế! Đó là đỉnh cao của triết lý văn hóa phát triển nhân văn và bền vững.

Triết lý đổi mới phải không ngừng làm phong phú và sâu sắc hơn quan điểm vừa ra sức phát triển kinh tế, vừa quan tâm giải quyết tốt những vấn đề xã hội, mà trong đó con người chiếm vị trí chủ thể và giữ vai trò là động lực nhằm tạo ra sự cân đối, hài hòa, đồng bộ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội, “tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển văn hóa, bảo vệ môi trường”. Kết hợp hữu cơ giữa “cái kinh tế” và “cái xã hội”, giữa “hiệu quả kinh tế” và “hiệu quả xã hội” mới đưa xã hội tới ổn định và phồn vinh. Đó là hai mặt của vấn đề phát triển hiện đại. Quan điểm cơ bản này của lý thuyết đổi mới rất phù hợp với quan điểm tiến bộ của thế giới hiện đại. Bởi, sự hài hòa không chỉ là nhu cầu trong quan hệ giữa con người với con người, giữa các nước, các dân tộc với nhau mà còn là sự biểu hiện giữa con người với thiên nhiên, với cộng đồng, bảo đảm phù hợp với lợi ích cao nhất của cả dân tộc và nhân loại. Sự hài hòa này không chỉ là phương châm để giải quyết các vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội giữa các dân tộc trong nước với nhau và đối với các nước khác, mà còn là biện pháp để điều hòa các mối quan hệ trong sản xuất, trong quá trình khai thác, bảo vệ thiên nhiên và các loại sinh thái khác.

Nói khái lược, mọi sự phát triển của công cuộc đổi mới xoay chung quanh con người, vì con người và cho con người chứ quyết không phải con người xoay chung quang công cuộc đổi mới. Đó chính là mục tiêu nhân văn tối cao của công cuộc đổi mới. Chủ nghĩa xã hội Việt Nam, có thể nói, chính là văn hóa.

Thứ năm, triết lý đổi mới và phát triển phải tiên lượng, đón gặp và hội nhập với xu thế nhân văn của thời đại.

Thế giới hiện đại là thế giới của những mối quan hệ đan xen và phụ thuộc lẫn nhau. Mỗi quốc gia là một bộ phận của thế giới đầy biến động, là một khâu trong quá trình phân công và hợp tác quốc tế. Hợp tác trong phát triển là nhu cầu sinh tồn và phát triển của toàn bộ thế giới.

Chủ nghĩa xã hội không phải là một khu vực biệt lập, một thế giới khép kín. Mỗi quốc gia xã hội chủ nghĩa, càng không phải là một ốc đảo trong thế giới ấy. Càng tách rời chủ nghĩa xã hội ra khỏi thế giới hay thậm chí đem đối lập nó với thế giới hiện đại thì càng ít thấy diện mạo và bản chất của chủ nghĩa xã hội. Chính vì vậy, triết lý lý đổi mới tiếp tục giải quyết vấn đề mở cửa và hội nhập quốc tế với tư cách là một trong những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đó cũng là quan điểm kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại của chủ nghĩa xã hội mà chúng ta đã, đang và sẽ tiếp tục tiến hành.

Nhưng mở cửa như thế nào và hội nhập ra sao? Triết lý đổi mới tiếp tục tiên lượng và hoạch định  những “hạn”, những “độ” cần thiết và phù hợp đối với thực tế ở nước ta. Mở cửa, đổi mới nhưng phải giữ vững nguyên tắc xã hội chủ nghĩa. Đa phương hóa, đa dạng hóa trong các mối quan hệ quốc tế nhưng nhất thiết không để chệch hướng xã hội chủ nghĩa. Hội nhập thông qua mở cửa nhưng không hòa tan, đánh mất chính mình trong đó. Đó là những vấn đề thuộc về nguyên tắc trong công cuộc hội nhập và phát triển của chúng ta.

Nhìn khái lược, từ Đại hội IX của Đảng đến nay, quan điểm của Đảng về “toàn cầu hóa” và “hội nhập quốc tế” ngày càng đầy đủ và đóng vai trò hết sức quan trọng đối với việc hoạch định đường lối phát triển đất nước. 

Đó là nét độc đáo, phương pháp mở của triết lý đổi mới xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Nói khái lược, phải là kết quả tất yếu của sự phát triển lý luận chủ nghĩa xã hội và thực tiễn xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa phù hợp thế giới, từ điều kiện cụ thể của nước ta. Nội trị thì dân chủ, nhân văn thống nhất với ngoại giao phải độc lập và hòa mục trên nền tảng pháp quyền xã hội chủ nghĩa và pháp lý quốc tế. Nghĩa là, “Đảng Cộng sản Việt Nam xuất phát từ thực tế của chính bản thân mình, không chịu bất cứ một sức ép nào từ bên ngoài và nhất là không ảo tưởng vào một mô hình sẵn có nào”(7).

Có thể khẳng định, triết lý đổi mới là hệ thống mở, mà linh hồn là triết lý đổi mới và phát triển là một đóng góp của Đảng Cộng sản Việt Nam vào sự phát triển của chủ nghĩa xã hội khoa học hiện nay. Chủ nghĩa xã hội Việt Nam là dân giàu nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh - chủ nghĩa xã hội là đất nước độc lập, Tổ quốc phồn vinh, nhân dân hạnh phúc, là văn hóa. Và, “Đường lối đổi mới… là con đường của những người mở đường mới mẻ trong lịch sử... mà chưa một ai đi qua”(8).

(Còn nữa)

* Triết lý phát triển Việt Nam tầm nhìn năm 2045 (Phần 1)

* Triết lý phát triển Việt Nam tầm nhìn năm 2045 (Phần 3 và hết)

TS. NHỊ LÊ
Nguyên Phó tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản

_______________________

(1) (5) Lời chào mừng Đại hội VIII Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 1996, tr. 23, 100.

(2) A.Li-lốp: Việt Nam biểu tượng của thế kỷ XX, Báo Nhân Dân, số ra ngày 20/9/2000, tr.5.

(3 (6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia-Sự thật, 2011, H, t.1, tr.35, 465.

(4) Việt Nam trong thế kỷ XX, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2001, t.1, tr.203.

(7) A.V.I-va-nô-vích: Minh chứng hùng hồn của chính sách đổi mới đúng đắn, Báo Nhân Dân, số ra ngày 20/9/2000, tr.5.

(8) Lời chào mừng Đại hội IX Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2001, tr.53.

Phản hồi

Các tin khác

Thư viện ảnh

Liên kết website

Mới nhất