Thứ Năm, 16/5/2024
Xã hội
Thứ Sáu, 25/12/2020 16:39'(GMT+7)

Kết quả thực hiện đào tạo nghề cho lao động nông thôn trên đại bàn tỉnh Nghệ An

Đào tạo tay nghề cho lao động nông thôn vùng miền núi đang được các cấp ngành chú trọng. Ảnh tư liệu của P.V

Đào tạo tay nghề cho lao động nông thôn vùng miền núi đang được các cấp ngành chú trọng. Ảnh tư liệu của P.V

 Nghệ An là tỉnh có quy mô dân số đông và nguồn lao động dồi dào, trong đó lực lượng lao động ở nông thôn chiếm tỉ lệ lớn trong lực lượng lao động xã hội. Trong 10 năm thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương và các quyết định của chính phủ về nông nghiệp, nông dân, nông thôn; đồng thời thực hiện Chỉ thị số 21-CT/TU, tỉnh Nghệ An đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng: Nông nghiệp phát triển với tốc độ ổn định; bộ mặt nông thôn có nhiều thay đổi tích cực, ngày càng khang trang, sạch đẹp; đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân không ngừng tăng lên; trình độ tay nghề, kiến thức nông nghiệp của lao động nông thôn ngày càng tiến bộ… Tuy nhiên, nguồn lao động trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp ở nông thôn trình độ chuyên môn kỹ thuật vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, ý thức áp dụng khoa học, kỹ thuật, tư duy kinh tế thị trường vẫn còn hạn chế.

Công tác quy hoạch, phát triển mạng lưới cơ sở dạy nghề, đến nay, toàn tỉnh có 65 cơ sở giáo dục nghề nghiệp và cơ sở hoạt động giáo dục nghề nghiệp, gồm: 09 trường cao đẳng; 14 trường trung cấp; 20 trung tâm giáo dục nghề nghiệp, 22 cơ sở hoạt động giáo dục nghề nghiệp (trong đó có 03 trường chất lượng cao; 16 trường nghề trọng điểm với 13 nghề cấp độ quốc tế; 09 nghề cấp độ khu vực Asean; 36 nghề cấp độ quốc gia). Quy mô, cơ cấu ngành, nghề, trình độ đào tạo cơ bản đã đáp ứng nhu cầu của người học, thị trường sử dụng lao động và chuyển dịch cơ cấu lao động, cơ cấu kinh tế trên địa bàn tỉnh.

Công tác tuyển sinh, đào tạo, dạy nghề và giải quyết việc làm cho lao động nông thôn được các cấp, ngành và địa phương quan tâm. Công tác tuyển sinh: Năm 2010 có 51.041 người; năm 2015 là 59.064 người; đến 30/5/2020 là 49.640 người. Số người tốt nghiệp so với số người đăng ký học nghề hàng năm chiếm tỉ lệ tương đối cao: Năm 2010 là 44.681 người (chiếm 61,25%); năm 2015 là 53.319 người (chiếm 90.27%); đến 30/5/2020 là 44.940 người (chiếm 90,53%).

Số người có việc làm sau đào tạo chiếm tỉ lệ khá cao, chủ yếu làm việc ở các doanh nghiệp trong tỉnh, doanh nghiệp ngoài tỉnh, xuất khẩu lao động và tự tạo việc làm. Trong tổng số 520.856/580.110 lao động nông thôn học nghề đã tốt nghiệp, có 387.019 người có việc làm, đạt tỷ lệ 74,3%. Cụ thể như sau: Có 189.745 lao động làm việc tại các doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh (chiếm 49,02%); 53.895 người làm việc tại nước ngoài (chiếm 13,92%) và 143.379 người tự tạo việc làm (chiếm 37,04%). Một số nghề tỷ lệ có việc làm cao trên 85-90% như: Hàn, điện, điện tử, may công nghiệp, kỹ thuật chế biến món ăn…

Công tác xã hội hóa đào tạo, dạy nghề cho lao động nông thôn cần tập trung huy động nguồn vốn của nhân dân, kể cả các tổ chức cộng đồng, tổ chức xã hội trong đầu tư xây dựng các cơ sở đào tạo; tổ chức các loại quỹ khuyến học, khuyến tài để phát triển giáo dục nghề nghiệp. Trong 10 năm thực hiện Chỉ thị 21-CT/TU, đã huy động được 1.520.744 tỷ đồng từ nguồn nguồn xã hội hóa để đầu tư cho giáo dục nghề nghiệp, gồm: Đóng góp của người học 831.933 tỷ đồng, các tổ chức cá nhân 568.396 tỷ đồng, nguồn khác (hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ…) 120.415 tỷ đồng. Huy động, khuyến khích được 24 cơ sở giáo dục nghề nghiệp ngoài công lập tham gia đào tạo nghề cho lao động nông thôn. Nhiều doanh nghiệp, hợp tác xã vừa tổ chức đào tạo nghề cho lao động nông thôn, vừa bao tiêu sản phẩm, tạo việc làm, ổn định thu nhập cho lao động nông thôn sau học nghề, nhất là trong lĩnh vực mây tre đan xuất khẩu, thêu ren, dệt thổ cẩm… Các doanh nghiệp tiếp nhận nhiều lao động sau khi tốt nghiệp như: Tổng công ty lắp máy Việt Nam; Công ty cổ phần Catalan; Công ty cổ phần Sông Đà 4; Công ty TNHH Gang thép Hưng Nghiệp Formosa; Công ty cổ phần cơ khí ô tô 3/2; Công ty TNHH MLB TENEGY; Tập đoàn Dệt may Hà Nội; Công ty Namsungvina; Khách sạn Mường Thanh; Công ty cổ phần Sài Gòn Kim Liên; Công ty TNHH New Wing Interconnect technology, Công ty cổ phần Hồng Hà…

Số lao động nông thôn được hỗ trợ học nghề theo diện chính sách quy định tại quyết định số 1956/QĐ-TTg, ngày 27/11/2009 của Thủ tướng Chính phủ là 76.091 người, gồm: Học nghề nông nghiệp là 36.628 người (chiếm 48,14%); học nghề phi nông nghiệp 39.463 người (chiếm 51,86%)…

Trong số lao động nông thôn được hỗ trợ, gồm các đối tượng: Đối tượng 01 (lao động thuộc diện hưởng chính sách ưu đãi người có công, lao động hộ nghèo, lao động là người dân tộc thiểu số, lao động bị thu hồi đất nông nghiệp, lao động là người khuyết tật) là 29.350 người (ciếm 38,75%); đối tượng 02 (lao động thuộc hộ cận nghèo) là 5.122 người (chiếm 6,73%); đối tượng 03 (lao động nông thôn khác) là 41.619 người (chiếm 54,70%).

Cần chú trọng tới công tác đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động đào tạo, dạy nghề cho lao động nông thôn trên đại bàn tỉnh.

Đổi mới chương trình và nâng cao hiệu quả hoạt động giáo dục hướng nghiệp trong các trường trung học cơ sở, trung học phổ thông: Thực hiện chủ trương đổi mới chương trình và nâng cao hiệu quả hoạt động giáo dục hướng nghiệp trong các trường trung học cơ sở, trung học phổ thông, Uỷ ban nhân dân ban hành quyết định số 3010/QĐ-UBND.VX, ngày 15/7/2015 phê duyệt Kế hoạch phân luồng, hướng nghiệp, dạy nghề cho học sinh sau trung học cơ sở và trung học phổ thông trên địa bàn tỉnh Nghệ An đến năm 2020. Trên cơ sở Kế hoạch của Uỷ ban nhân dân tỉnh, các cơ sở giáo dục nghề nghiệp phối hợp chặt chẽ với các địa phương, các trường trung học cơ sở và trung học phổ thông tổ chức hội nghị tư vấn, định hướng nghề nghiệp và phân luồng học sinh vào học nghề như: Tổ chức Ngày hội tư vấn - hướng nghiệp - tuyển sinh giáo dục nghề nghiệp; tổ chức các buổi tham quan học tập, hội thảo chuyên đề về nghề nghiệp… Từ đó, tỉ lệ học sinh sau trung học cơ cở tham gia học nghề tăng từ 1,7% (năm học 2014 - 2015) lên 20,2% (năm học 2018 - 2019); tỷ lệ học sinh sau trung học phổ thông không tham dự tuyển đại học tăng từ 37% (năm học 2014 - 2015) lên 41,21% (năm học 2018 - 2019)…

Chương trình, giáo dục đào toạ, phương pháp giảng dạy thường xuyên được cập nhật, bổ sung, đổi mới cho từng nghề và từng cấp trình độ. Đến nay, đã xây dựng, biên soạn lại 268 lượt chương trình, gồm: 112 lượt chương trình đào tạo nghề nông nghiệp và 156 lượt chương trình đào tạo nghề phi nông nghiệp. Thời gian, nội dung, chương trình đào tạo của từng nghề cơ bản phù hợp với đặc điểm quy trình sản xuất, quy trình sinh trưởng của cây trồng, vật nuôi ở từng vùng, miền; ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ sản xuất. Nhờ vậy, lao động nông thôn sau học nghề đã áp dụng đưa công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp, giúp tiết kiệm chi phí và tăng năng suất cây trồng, vật nuôi; xây dựng nhiều mô hình trồng rau, quả sạch… theo tiêu chuẩn VietGAP và các mô hình chăn nuôi lợn, gà quy mô công nghiệp cho thu nhập gấp nhiều lần so với chăn nuôi hộ gia đình truyền thống.

Công tác đào tạo, bồi dưỡng, phát triển đội ngũ giáo viên dạy nghề, cán bộ quản lý dạy nghề; huy động các nhà khoa học, nghệ nhân, cán bộ kỹ thuật, kỹ sư, người lao động có tay nghề cao tham gia xây dựng chương trình, giáo dục dạy nghề cho lao động nông thôn: Công tác đào tạo, bồi dưỡng, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý trong các cơ sở giáo dục nghề nghiệp được chú trọng. Hàng năm, cấp uỷ, chính quyền các cấp đã chỉ đạo các cơ sở giáo dục nghề nghiệp thực hiện đánh giá, xếp loại nhà giáo theo quy định; từ đó xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng để chuẩn hóa và nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo trong từng đơn vị. Đến nay, tổng số nhà giáo giảng dạy trong các cơ sở giáo dục nghề nghiệp là 2.590 người; trong đó, có 2.136 nhà giáo đạt chuẩn về chuyên môn, 1.891 nhà giáo đạt chuẩn về nghiệp vụ sư phạm; đã tổ chức bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm và kỹ năng dạy học cho 1.052 người.

Công tác kiện toàn tổ chức, cán bộ làm công tác quản lý nhà nước về giáo dục nghề nghiệp được quan tâm. Hướng dẫn, chỉ đạo các cơ sở giáo dục nghề nghiệp công lập thuộc tỉnh quản lý thực hiện xây dựng, phê duyệt Đề án sắp xếp tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ công chức, viên chức; Đề án vị trí việc làm nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động theo Nghị quyết số 18/NQ/TW và Nghị quyết số 19-NQ/TW, ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương; Đề án số 09-ĐA/TU, ngày 18/4/2018 của Tỉnh uỷ.

Các địa phương, ngành liên quan đã chủ động bố trí cán bộ quản lý, theo dõi cong tác đào tạo nghề nghiệp tại Phòng Lao động - Thương binh & Xã hội. Đến nay, 100% các huyện, thành phố, thị xã có giao nhiệm vụ cho cán bộ quản lý công tác giáo dục nghề nghiệp và 100% cán bộ quản lý đào tạo nghề nghiệp cấp huyện, cấp xã được tập huấn, bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ.

Nhiều cơ sở giáo dục nghề nghiệp đã mời những nhà giáo có chuyên môn giỏi, kinh nghiệm và các nghệ nhân, kỹ sư, cán bộ kỹ thuật, người lao động có tay nghề cao để tham gia xây dựng, chỉnh sửa chương trình đào tạo và trực tiếp đào tạo, bồi dưỡng, góp phần từng bước nâng cao chất lượng công tác đào tạo, dạy nghề cho lao động nông thôn. Nhờ vậy, lao động  nông thôn sau học nghề đã tiếp cận công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp, giúp tiết kiệm chi phí và tăng năng suất cây trồng vật nuôi, xây dựng nhiều mô hình trồng rau, quả sạch, cho thu nhập cao gấp nhiều lần so với chăn nuôi, trồng trọt theo hộ gia đình truyền thống.

Tổ chức điều tra, khảo sát nhu cầu học nghề và sử dụng lao động qua đào tạo nghề ở nông thôn.

Qua công tác điều tra, khảo sát nhu cầu học nghề từng bước được quan tâm. Theo kết quả khảo sát từ các huyện, thành, thị, hàng năm toàn tỉnh có gần 85.000 người có nhu cầu học nghề ở ba cấp trình độ (cao đẳng, trung cấp, sơ cấp và đào tạo dưới 3 tháng) với 57 nghề khác nhau; trong đó, nghề nông nghiệp chiếm 46,5%; phi nông nghiệp chiếm 53,5%.

Qua các đợt điều tra, khảo sát hàng năm cho thấy, hiện nay người lao động có nhu cầu học các nghề mà thị trường đang cần như: May mặc, cơ khí, hàn, điện tử… từ đó, giúp cho cấp uỷ đảng, chính quyền các cấp xây dựng kế hoạch đào tạo nghề cho lao động nông thôn từng bước phù hợp hơn với thực tế, đáp ứng được nhu cầu học nghề của người lao động và gắn với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch xây dựng nông thôn mới của từng địa phương và của tỉnh.

Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn những hạn chế, nguyên nhân và bài học kinh nghiệm trong công tác đào tạo, dạy nghề cho lao động nông thôn như: Kết quả hỗ trợ cho lao động nông thôn học nghề theo chính sách quy định tại quyết định số 1956/QĐ-TTg ngày 27/11/2009 của Chính phủ chưa đạt kế hoạch đề ra, cụ thể: Số lao động nông thôn được hỗ trợ học nghề là 76.091 người/113.960 người, chỉ đạt 66,77% kế hoạch.

Việc chuyển đào tạo nghề từ năng lực sẵn có của cơ sở dạy nghề sang đáp ứng nhu cầu xã hội và thị trường lao động còn chậm; chất lượng đào tạo lao động của một số ngành, nghề chưa đáp ứng được nhu cầu sử dụng lao động.

Một bộ phận lao động nông thôn sau học nghề chưa áp dụng kiến thức đã học vào thực tế sản xuất kinh doanh, không tạo được việc làm hoặc có việc làm nhưng chưa ổn định, thu nhập thấp. Ý thức tổ chức kỷ luật, tác phong lao động công nghiệp còn hạn chế, ảnh hưởng đến kết quả giải quyết việc làm.

Nguyên nhân của những hạn chế trên đó là,

Nghệ An là địa phương có địa bàn rộng; tỷ lệ lao động chưa qua đào tạo còn cao; số lượng doanh nghiệp ít, quy mô nhỏ, nhu cầu sử dụng lao động không nhiều, ảnh hưởng đến nhu cầu học nghề của lao động nông thôn.

Các điều kiện đảm bảo để nâng cao chất lượng đào tạo, dạy nghề cho lao động nông thôn còn hạn chế như: Cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ đào tạo, dạy nghề còn thiếu, không theo kịp sự phát triển của khoa học công nghệ; đội ngũ giáo viên thiếu về số lượng, trình độ, kỹ năng còn hạn chế…

Kinh phí phân bổ để thực hiện chỉ tiêu đào tạo, dạy nghề cho lao động  nông thôn còn hạn chế, chưa đáp ứng được nhu cầu đặt ra. Giai đoạn 2010 -2020, tổng kinh phí từ ngân sách nhà nước bố trí để thực hiện đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn là 341.463 tỷ đồng/kế hoạch 611.850 tỷ đồng (đạt 55,8% so với kế hoạch).

Việc lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ, chính quyền, sự phối hợp của các tổ chức chính trị - xã hội triển khai thực hiện Chỉ thị 21-CT/TU ở một số địa phương, đơn vị còn chưa quyết liệt, hiệu quả chưa cao.

Công tác tuyên truyền chủ trương, cơ chế chính sách trong lĩnh vực đào tạo, dạy nghề, giải quyết việc làm cho lao động nông thôn chưa thường xuyên, sâu rộng, nhất là đối với cổ phần vùng sâu, vùng xa, vùng ven biển.

Đội ngũ làm công tác quản lý giáo dục nghề nghiệp chủ yếu là kiêm nhiệm, ảnh hưởng đến công tác quản lý nhà nước về giáo dục nghề nghiệp, đào tạo, dạy nghề cho lao động nông thôn tại địa phương.

Công tác huy động nguồn lực xã hội tham gia vào hoạt động giáo dục nghề nghiệp, đào tạo, dạy nghề cho lao động nông thôn chưa thật sự hiệu quả…

Sự phối hợp của các cấp, các ngành liên quan trong tổ chức thực hiện chỉ thị 21-CT/TU có lúc chưa thường xuyên, kịp thời. Việc đào tạo nghề chưa gắn với địa chỉ tuyển dụng; sự phối hợp giữa nhà đầu tư, các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh để khảo sát nhu cầu tuyển dụng lao động chưa thật sự chặt chẽ…

Một bộ phận lao động nông thôn chưa nhận thức đúng đắn về sự cần thiết, mục tiêu của học nghề; chưa chủ động, tích cực tham gia học nghề để phát triển sản xuất, tạo việc làm, ổn định cuộc sống.

Để khắc phục hạn chế trên, cần chú trọng đến một số bài học kinh nghiệm trong vấn đề thực hiện, đó là: Cấp uỷ đảng, chính quyền các cấp, các sở, ban, ngành liên quan phải xác định công tác đào tạo, dạy nghề cho lao động nông thôn là nhiệm vụ chính trị trọng tâm để xây dựng, ban hành nghị quyết của cấp uỷ, nghị quyết của Hội đồng nhân dân và chỉ tiêu kế hoạch từng năm và từng giai đoạn để lãnh đạo, chỉ đạo triển khai tổ chức thực hiện.

Việc lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện công tác đào tạo, dạy nghề cho lao động nông thôn phải xuất phát từ mục tiêu, chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch sản xuất, xây dựng nông thôn mới của từng vùng, địa phương, sát với tình hình thực tế tại địa phương và nhu cầu sử dụng lao động của doanh nghiệp.

Thực hiện có hiệu quả các cơ chế, chính sách đào tạo, dạy nghề cho lao động nông thôn; đẩy mạnh thu hút đầu tư và phát triển các loại hình doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tại địa phương nhằm tạo cơ hội, nhiều vị trí việc làm mới cho lao động nông thôn, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động, cơ cấu kinh tế.

Chú trọng các điều kiện đảm bảo để nâng cao năng lực, chất lượng đào tạo cho các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, nhất là đội ngũ giáo viên; trang thiết bị phục vụ công tác đào tạo, dạy nghề. Đẩy mạnh các hoạt động xã hội hóa trong giáo dục nghề nghiệp, nhất là đào tạo nghề cho lao động nông thôn.

Tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết đánh giá quá trình triển khai thực hiện công tác giáo dục nghề nghiệp và đào tạo, dạy nghề cho lao động nông thôn trên địa bàn.

Về nhiệm vụ và giải pháp thực hiện công tác đào tạo, dạy nghề cho lao động nông thôn trong thời gian tới trên địa bàn tỉnh.

Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ đảng, chính quyền các cấp; sự phối hợp đồng bộ giữa các cấp, các ngành và cả hệ thống chính trị đối với công tác đào tạo, dạy nghề cho lao động nông thôn.

Quán triệt quan điểm phát triển giáo dục nghề nghiệp, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực có kỹ năng nghề; đào tạo nghề cho lao động nông thôn là nền tảng, yếu tố quyết định để phát triển bền vững kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng an ninh; tạo sự chuyển biến mạnh về nhận thức cho cấp uỷ, chính quyền các cấp và các tổ chức chính trị - xã hội về vị trí và tầm quan trọng của nguồn nhân lực lao động nông thôn.

Quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo triển khai, tổ chức thực hiện công tác giáo dục nghề nghiệp và đào tạo nghề cho lao động nông thôn, coi đây là nhiệm vụ trọng tâm và lâu dài để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực ở khu vực nông thôn nhằm đẩy nhanh phát triển kinh tế, xã hội của từng địa phương và của tỉnh.

Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp uỷ đảng trong xây dựng kế hoạch phát triển và tổ chức triển khai thực hiện đào tạo, dạy nghề cho lao động nông thôn, nhất là khu vực miền núi, dân tộc thiểu số.

Tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức, vai trò trách nhiệm, tầm quan trọng đối với công tác giáo dục nghề nghiệp và đào tạo, dạy nghề cho lao động nông thôn.

Chỉ đạo đổi mới mạnh mẽ công tác tuyên truyền, tạo sự chuyển biến trong nhận thức, sự đồng thuận của toàn xã hội về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước; ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác giáo dục nghề nghiệp nói chung, đào tạo nghề cho lao động nông thôn nói riêng.

Cấp uỷ Đảng, chính quyền các cấp, các ngành, các tổ chức chính trị xã hội tiếp tục phối hợp tốt với các cơ quan tuyên truyền để đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền, phổ biến chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước; những mô hình đào tạo nghề nghiệp gắn với giải quyết việc có hiệu quả để nhân diện rộng.

Các cơ sở giáo dục nghề nghiệp tăng cường phối hợp với các địa phương, các trường trung học cơ sở, trung học phổ thông, các cơ quan truyền thông thường xuyên tuyên truyền định hướng, tư vấn nghề nghiệp, phân luồng học sinh trung học cơ sở, trung học phổ thông lựa chọn ngành, nghề học phù hợp với bản thân và yêu cầu của xã hội; làm thay đổi tư tưởng, nhận thức "thích làm thầy hơn làm thợ" của người dân, từ đó, chủ động tham gia học nghề để sớm có được việc làm và thu nhập ổn định.

Tập trung củng cố, nâng cao năng lực, chất lượng, hiệu quả hoạt động của các cơ sở giáo dục nghề nghiệp.

Thực hiện quy hoạch mạng lưới các cơ sở giáo dục nghề nghiệp giai đoạn 2021 - 2025 và định hướng đến năm 2030 theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, đảm bảo về số lượng, hợp lý về vùng miền; cơ cấu ngành, nghề, cấp trình độ đào tạo. Loại bỏ những ngành, nghề xã hội không có nhu cầu; bổ sung một số ngành, nghề mới nhu cầu sử dụng nhiều; lấy chất lượng, hiệu quả làm khâu đột phá.

Tập trung đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị đồng bộ, hiện đại phục vụ cho công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn, nhất là các thiết bị công nghệ mới, công nghệ cao đáp ứng yêu cầu đào tạo, phù hợp nhu cầu thị trường sử dụng lao động.

Chú trọng nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý đạt chuẩn quy định. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý hoạt động đào tạo, quản trị nhà trường và quản lý nhà nước trong lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp.

Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ nội dung chương trình, giáo trình đào tạo, phương pháp giảng dạy theo hướng tăng năng lực thực hiện; đa dạng phương thức, hình thức đào tạo giáo dục nghề nghiệp trong tình hình mới như: Liên kết đào tạo, đào tạo lại và đào tạo nâng cao; hợp tác với doanh nghiệp trong và ngoài nước thông qua hình thức ký biên bản ghi nhớ đào tạo, đặt hàng đào tạo, thực tập, tham gia xây dựng chương trình, giáo trình đào tạo, đánh giá…

Đẩy mạnh xã hội hóa trong lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp.


Thu hút các thành phần kinh tế đầu tư vào lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp; khuyến khích thành lập cơ sở giáo dục nghề nghiệp hoặc mở lớp đào tạo tại nơi làm việc để tham gia đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng, tay nghề cao.

Tăng cường công tác quản lý nhà nước về giáo dục nghề nghiệp.

Nâng cao vai trò trách nhiệm của chính quyền các cấp, các ngành trong việc chỉ đạo thực hiện công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn. Thực hiện nghiêm việc đánh giá, kiểm định chất lượng đào tạo tại các cơ sở giáo dục nghề nghiệp theo quy định. Đẩy mạnh các hoạt động kiểm tra, giám sát trong việc triển khai thực hiện các chương trình, đề án thuộc lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp và đào tạo nghề cho lao động nông thôn./.

Nguyễn Văn Hùng-Tổng cục Giáo dục Nghề nghiệp

Phản hồi

Các tin khác

Thư viện ảnh

Liên kết website

Mới nhất